ĐÔI ĐIỀU VỀ BÀI GIẢNG CỦA
THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT
chùm bài viết #dângsaogiảihạn
Quả là khi nghe giảng về vấn đề này, bản thân tôi đã thấy nội dung còn có một số điểm chưa hoàn chỉnh. Tuy nhiên bài giảng của giảng sư là bộ phận “cần đoàn kết” theo cách nói của Mao Trạch Đông, nó chống lại cái tư tưởng coi #cúngsao là ngoại đạo của phái sư tân thời hiện nay. Căn bản là về hiểu biết của giảng sư còn chưa bao quát được các tôn giáo khác, và chưa biện chứng trong cái nhìn về lịch sử văn hóa.
Tuy nhiên, sau khi bài giảng được lưu truyền, có một bộ phận "đạo sĩ Trung Quốc nói tiếng Việt" đăng đàn rầm rầm phản đối. sự phản bác của họ cũng có cái lí, tuy nhiên, SỰ PHẢN BÁC KHÔNG ĐỨNG TRÊN TINH THẦN KHOA HỌC VÀ CẦU THỊ, mà lại dùng sự phân rẽ tôn giáo này (Đại – tiểu thừa) để đi làm vũ khí vũ trang cho sự chống lại tôn giáo khác (Đạo – Phật) thì còn đáng để lên án hơn
Thứ nhất về hàm ý mơ hồ “Tinh tú (sao) có ở Ấn Độ vậy mà có danh từ của bắc đẩu tinh quân của Trung Hoa?” mà ai đó dùng để khẳng định, nguồn gốc của các vì tinh tú là của Trung Hoa.
Hiện tượng này trong kinh văn hán tạng sơ kì rất nhiều. nguyên nhân: do sự khác biệt ngôn ngữ, nên các nhà sư thời kì đầu có xu hướng, mượn những từ, khái niệm vốn có của Trung Quốc để diễn đạt Phạn bản. hiện tượng này xuất hiện trong nhiều kinh liên quan đến vấn đề thần thức. thường, các nhà phiên dịch sẽ dịch là “linh”, “linh thần”, “thần hồn”, … vì thời kì này duy thức tông chưa truyền bá vào Trung Quốc, nên hệ thống khái niệm về vấn đề này chưa đầy đủ. Tương tự như vậy, bảy vì tinh tú kia đã được nhân loại biết đến từ lâu. Cả Ấn độ và Trung Hoa đều có. Tên gọi của Cửu diệu, ngoài được phiên âm từ ngôn ngữ Ấn Độ còn có cách diễn đạt bằng văn Hán. Đơn cử như sao Kế đô (計都), theo Phạn ngữ tạp danh, thì sao Kế đô được phiên âm từ chữ Kātu của Phạn ngữ. Nhất thiết kinh âm nghĩa cũng xác nhận rằng Kế đô nguyên là Phạn ngữ, ngôn ngữ nhà Đường gọi là Tràng vực hoặc Tiết thủ chấp
Thứ hai, có người nói rằng “ở hoa hạ họ cúng sao từ thời tam hoàng ngũ đế” nhưng mà họ lại quên mất rằng, trong một lần tranh luận, họ cũng đã thừa nhận: không phải tín ngưỡng cúng bái, hay phù chú nào cũng là thuộc Đạo giáo. Trước khi Đạo giáo ra đời thì Trung Quốc đã có hệ thống tín ngưỡng đa dạng rồi.
Thứ ba, về “Ngươn thĩ” hay “Bắc tông” ai ngụy ai chân, thì không nên hàm ngôn, nếu không phải là người nghiên cứu. chú nghĩa Marx đã chỉ rõ, “không có triết gia nào ra đời mà không mang dấu vết của thời đại mình”. Việc coi Phật giáo như một lí thuyết, một hệ tư tưởng đoạn tuyệt với mọi tín ngưỡng đương thời của Ấn độ mà phái Tiểu thừa chủ trương là một thứ phủ định siêu hình và chủ quan chủ nghĩa. Bản thân khái niệm “nguyên thủy” mà nhiều giáo phái, không riêng Tiểu thừa Phật giáo đang trương lên là một khái niệm sai và tối nghĩa. Việc một tôn giáo có đạo tổ thuộc vùng văn hóa Bách Việt, nhưng lại khẳng định, lối hành trì của người Hán CHẾ ĐỊNH, TỰ ĐẶT RA là lối hành trì duy nhất đúng và là đại biểu cho đạo mình cũng siêu hình và vô lí tương tự. Vì vậy, tìm về nguồn gốc của tín ngưỡng Ấn độ một cách biện chứng nhất, thì phải đứng trên cả 2 chân: Phật giáo phát triển đại thừa bắc truyền và Phật giáo Theravada tiểu thừa nam truyền.
Thứ tư, một điểm nhỏ nhoi mà tôi chưa thỏa mãn là, người ta vẫn chưa chỉ ra cho độc giả một khoa giáo nào viết mấy chữ đơn giản “NHƯƠNG TINH KHOA” trong khi cụ Tiến Đạt có nói về việc mang khoa Tạp tiếu sang Trung Quốc tham vấn. Nên nhớ rằng, khoa Tạp tiếu tuy nguyên bản là Đạo giáo, nhưng từ phiên bản đầu tiên (Liễu chàng) đã không còn là tài sản của Đạo giáo nữa rồi, mà nó chỉ còn là vỏ bọc cho tín ngưỡng của Việt Nam.
Thứ năm, lại nói về “khoa cúng sao ở vn mà cứ thỉnh cả Ngọc Hoàng, Nam đẩu, Bắc đẩu, Cửu diệu,... Bên đạo giáo”, nếu đã khẳng định trời là trời chung, sao là sao chung, thì làm gì có chuyện “Ngọc Hoàng, Nam đẩu, Bắc đẩu, Cửu diệu,... Bên đạo giáo”, Việt nam của chúng tôi cũng có ông Giời của chúng tôi nhé! kiến thức chiêm tinh, chiêm văn học là tài sản mà nhiều dân tộc sở hữu. cũng như vậy, tín ngưỡng sao, tinh tú, nhiều dân tộc và tôn giáo đều có. bản thân Đạo giáo cũng chưa chắc đã là người sáng tạo ra cúng sao, mà chỉ là thừa hưởng và nâng cấp từ văn hóa dân gian. Cúng sao của Việt Nam, bản thân cũng chỉ mượn cái màu sắc nào đó từ Đạo giáo chứ về mặt mục đích thì không giống. ta phải khẳng định rằng: Việc cúng sao, của Phật giáo do chư tổ soạn ra đã khác về chất so với cúng sao của tín ngưỡng dân gian hay của Đạo giáo. Nhương tinh khoa cũng như các khoa Thiên thời, Khao thỉnh ngũ phương, … đều có nét hay là, không chỉ cúng tế các vị ôn hoàng dịch lệ, hung tinh ác thần theo lối “đút lót”, “bôi trơn”, mà thỉnh các vị “lai lâm pháp hội, chiêm ngưỡng thế tôn, thủ hộ đàn tràng”, nhắc nhở các vị “Thường tu bồ tát chi tâm. Tất chứng Như Lai chi quả”. Pháp hội cũng được kết hợp với đàn Dược sư. Mở đầu trai đàn là Thỉnh Phật, Kì thiên, rồi vào Nhương tinh, kết bằng tuyên bảng khai kinh Dược sư, Phổ Môn, Ngũ bách danh, Khâm thiên giải ách, cúng thí thực, phóng sinh,... Bản thân nó đã là một việc thiện, cúng dàng Tam Bảo, phóng sinh, thí vật, …bản thân trai đàn đã có ý nghĩa giáo dục cao.
Tóm lại, nói chung là, tư duy luôn có quy luật, từ phiến diện đến toàn diện, từ chưa biết đến biết. làm sao, để mọi người hiểu thêm và tôn trọng những đóng góp văn hóa của tôn giáo mình mới là điều quý, chứ không phải là làm cái việc “lấy cái sai của người khác làm cái sai của mình” là cứu kính cho bộ mặt một giáo phái xa lạ, đang cố gắng phủ định nền tảng văn hóa lâu bền và đặc sắc của một quốc gia ngàn năm văn hiến. (xin nhấn mạnh từ “giáo phái” – chứ không phải là “tôn giáo”. Mục đích nhấn mạnh: để tránh các phần tử cực đoan)
Vũ tịch cẩn mèo=))

0 Nhận xét