Phật giáo có chủ trương đốt vàng mã hay không?
Có thể nói vấn đề có hay không việc đốt vàng mã là một chủ đề lớn hai phe thường xuyên tranh cãi. Đứng về phía mặt thế sự, bên đời thì “không” xem ra được ủng hộ hơn. Vì người ta suy nghĩ đơn giản là: tiết kiệm, đỡ ô nhiễm môi trường, không mất an toàn cháy nổ. Tuy nhiên đây không chỉ là vấn đề Đời sống mà còn là giáo pháp, phải đem ra mà mổ xẻ cho tường tận.
Có nhiều người nói: “Phật giáo không có một quy định mê tín như vậy.
các tăng ni tụng kinh, lễ sám, cầu đảo… đều có viết sớ. Đọc sớ xong rồi đốt sớ đi. Đó là bắt chước Đạo gia đọc sớ cho quỷ thần nghe, đó là mê tín, hoàn toàn không có căn cứ gì trong giáo lý đạo Phật cả. Trong mọi việc, Phật giáo đều chủ trương lấy tâm thành kính để có cảm ứng. Đã đạt tới chỗ tâm thành và cảm ứng rồi, là có linh nghiệm, chứ không cần phải đốt lá sớ. Bằng không thì dù có đốt đến trăm ngàn lá sớ, cũng chẳng có ích gì.
Lối mê tín hạ đẳng này, bộ tộc nguyên thủy nào cũng có ít nhiều. Người ta cùng chôn với người chết đồ vật, tiền tài, châu báu, vải vóc, thậm chí cả đến người sống và súc vật sống nữa.
Vì sao lại đốt tiền giấy? Điều này có liên quan đến một loại tôn giáo gọi là Hỏa giáo. Hỏa giáo tin rằng Thần Hỏa có khả năng đưa vật bị đốt đến cho quỷ thần dùng. Trong Ấn Độ giáo thờ Hỏa thần Agui (A Kỳ Tu) có công năng đem đồ tế bị đốt đến cho quỷ thần”.
https://phatgiao.org.vn Thứ sáu, 03/01/2020 | 07:12
Về ý kiến của tác giả. Thứ nhất. Tôi xin hỏi, theo tác giả “Phật giáo” là gì trước đã.
Nếu nói, “Phật giáo” là “giáo lý Phật đà” tức là những gì Phật tuyên thuyết, thì đúng là Phật không dạy đốt mã thật. Thế nhưng, Phật không nói đâu có nghĩa là không tồn tại việc đốt vàng mã. chẳng phải Phật đã nói: “những gì mà ta nói thì như lá ta nắm trong tay, còn những gì chưa nói, thì như lá trong rừng”. Thế tức là Phật chưa nói cũng chưa thể phủ định được vấn đề đốt vàng mã, sớ sao. Vì sao? vậy thử hỏi lúc Phật còn tại thế thì đệ tử hành lễ trước Phật thì cần gì phải quan tâm cách lập đàn tràng, viết sớ. Vì đơn giản là đến trình ngay với Phật cho “hiệu quả”. còn sau khi Phật tịch thì tăng đoàn mới tổ chức ra lễ nghi, lúc đấy mới mỗi nơi mỗi kiểu mỗi thày mỗi phép. Tuy nhiên những gì không đi ngược lại những gì Phật thuyết thì không lí do gì để không hành trì cả.
Còn nếu nói, “Phật giáo” là tổ chức tôn giáo chặt chẽ lấy giáo lý Phật thuyết làm chỉ nam thì sao? Thì xin thưa từ trước đến nay, các nước Phật giáo Bắc truyền đều có quy định rất chặt chẽ, bài bản, rất rõ ràng, chuẩn chỉ về mặt giấy sớ, vàng tiền. Khoa nào sớ nào, mã gì, đều có triết lí của nó, có quy định chứ không thả nổi. (cúng tổ nghinh sư duyệt định, cúng Phật thì không có mã, …). Ngay trong Đại tạng, Quyển Pháp Uyển Châu Lâm, cũng có nói tới chuyện giấy vàng bạc và đốt quần áo, vật dụng. Bài văn ấy do quan Trung Thư Lệnh Sầm Văn Bổn đời Đường ghi lại cuộc vấn đáp giữa thầy ông ta và một viên quỷ quan (quan cõi âm). Người ấy là Lục Nhân Thiến, thoạt đầu chẳng tin Phật và quỷ thần; sau này do làm bạn với viên quỷ quan ấy bèn tin tưởng, còn sai Sầm Văn Bổn bày tiệc để đãi đằng viên quan ấy và khắp những kẻ tùy tùng. Họ Lục hỏi: “Giữa cõi Âm và cõi Dương có thể dùng vật nào để trao đổi?” Viên quỷ quan nói: “Vàng, bạc, vải, lụa chúng tôi có thể dùng được; nhưng đồ thật chẳng bằng đồ giả! Nếu đem giấy trang kim dán trên giấy và dùng giấy làm the, đoạn” v.v… thì sẽ có thể coi như là vàng và quần áo để sử dụng được”.
Tại sao nói: sớ văn “là chỗ quan trọng của Thiền môn, mà còn có chỗ nương nhờ vào Phật giáo.” Đây là nơi thể hiện tài hoa của hành giả. Bao nhiêu công phu dồn vào đây. thật sự soạn sớ văn rồi mới biết, đây không chỉ đơn giản ra hàng mã mua ít sớ về điền là xong. Đó là lối hàng chợ, không phải lối của ông thầy. Như đức tổ Huyền Quang đã diệu bút:
“Tam giáo nguyên lai nhất thiên
Nho với Đạo – Thích tăng thiền là ba
Ấy là phép Phật Thích Ca
Công Văn khảo hết mới ra danh thầy”
Tác giả cho rằng: “Trong mọi việc, Phật giáo đều chủ trương lấy tâm thành kính để có cảm ứng. Đã đạt tới chỗ tâm thành và cảm ứng rồi, là có linh nghiệm, chứ không cần phải đốt lá sớ. Bằng không thì dù có đốt đến trăm ngàn lá sớ, cũng chẳng có ích gì.” Vậy thử hỏi, thế khi viết sớ thì tâm không thành sao? Hành giả có chắc là trong lúc hành đàn, hành lễ, nhiều nghi tiết, thủ tục như vậy, dồn dập như vậy, tâm hành giả có đủ tĩnh không? Sớ văn là một điểm ngừng, ngắt giữa hoặc gần kết khoa giáo, để hành giả và tín chủ bình tâm mật đảo, đó là chỗ ý nghĩa, là phương tiện vậy. Đấy là chưa kể trong những trường hợp tín chủ không biết chữ, khó có thể sắp xếp cho lớp lang tâm ý của mình. Như khi dâng sớ các cụ vẫn thường khấn: “tâm con dốt nát ngu si/ biết gì là dại biết gì là đâu/ vậy con đội sớ lên tâu/ đội sớ lên đầu trình Phật Thích Ca”. Hay trong tang ma, gia chủ còn đang đau thương, đầu óc quay cuồng thảm thiết, …tất cả đều là lúc cần nhờ đến sớ văn, để yên phần tâm lí cho họ. Rất nhân văn. Không có gì là trái với giáo lí.
Nếu nói về “mê tín” thì chính cái lối suy nghĩ “Phật không dạy đốt vàng mã nên đốt mã là mê tín” mới thực sự là dị đoan. Trong kinh Kamala Phật dạy, đừng trông chờ vào lí thuyết, lời giải sẵn của Phật, mà hãy tự đốt đuốc lên mà đi. Hãy thử suy nghĩ xem. Đốt mã có phù hợp với thiên lý nhân tình chăng? Phật, Bồ Tát thiếu thốn đồ dùng, vẫn cần được người đời cúng dàng ư? Chỉ vì nếu người đời không dùng thức ăn, hương, hoa v.v… nhằm biểu lộ tấm lòng Thành, sẽ chẳng có gì để thể hiện tấm lòng Thành hòng cảm Phật, Bồ Tát. Vàng mã hay hoa quả, xôi chè, … tất cả ới bậc thánh nhân cũng chỉ là thứ vô dụng như nhau; nhưng luận trên phương diện nhất niệm thành tâm thì cũng có công đức. Ví như đứa trẻ cúng dàng cát cho đức Phật (đây là chuyện tiền thân của vua A Dục) vẫn được hưởng báo Thiết Luân Vương.
Thực ra ngay cả trong những tôn giáo được xem là nghiêm chỉnh nhất thì vẫn ẩn chứa một số biểu hiện “mê tín” vì bản chất tôn giáo đó là niềm tin vào những đấng không chứng minh. Điều quan trọng là phải cảnh giác với những phần tử cơ hội, lợi dụng sự cả tin của quần chúng để trục lợi cá nhân, hay xâm phạm đến lợi ích cộng đồng. Việc đốt mã phải được quy định rõ ràng, đốt sao cho văn minh, văn hoá, tiết kiệm. Không thánh nào yêu cầu con nhang mua động bao nhiêu tiền, ngựa voi, thuyền bao nhiêu triệu cả. Tất cả là tại con người đã quá lạm dụng mà thôi.
Ta cần phải nhìn lại lịch sử của phong tục này: vàng mã ban đầu là sự thay thế của tục tuẫn táng, tùy táng – tức là, ý nghĩa ban đầu của tục đốt vàng mã rất nhân văn, nhằm tránh sự lãng phí của cải và thể hiện lòng hiếu thảo với tổ tiên, lòng thương tiếc đối với người đã khuất. Và trong khía cạnh nào đó, cho đến ngày nay, nó vẫn thể hiện rõ ràng chức năng ấy. Trong đàn tràng, pháp hội, nếu bày lễ chỉ có hoa, quả, hương lô, … thì không gian trống trải vô cùng. Muốn không gian không trống trải, muốn “sang đàn” nhưng không dùng mã vật thì đồng nghĩa là kinh phí đàn lễ sẽ tăng lên với cấp số nhân, cấp số mũ. Mà nếu trai đàn quá tốn kém, thì dần dà, pháp phổ độ này chỉ còn “độ” được cánh nhà giàu mà thôi. Nhiều người nói rằng: “làm lễ chỉ cần cái tâm là chủ yếu, cần gì sang đàn hay tráng lệ, vốn chỉ là những thứ phù phiếm”. Vậy xin hỏi, tại sao với đấng tôn quý, ta không hết sức lấy vật đẹp mà cúng dàng, hay chỉ lấy cái “tâm” làm “bia” cho sự cẩu thả, búi sùi? Đó chính là tư tưởng “trang nghiêm pháp hội” của Phật giáo Đại thừa. Đàn việt cũng là phương tiện kết nối cộng đồng, là nơi mối quan hệ làng xóm, họ hàng xích lại gần hơn, không thể qua loa đại khái cho xong. Đối với thiền môn, đó cũng là phương tiện để chúng nhân đến với cửa chiền, “Chiêm ngưỡng Đại thừa, tán khai khoa giáo”.
Một chức năng nữa của mã vật, đặc biệt là mã thần linh đó là, ngoài việc trở thành “hoa đàn”, thì nó còn đóng vai trò “đối tượng tín ngưỡng” – tức là đảm nhiệm chức năng của tranh đàn hay tượng pháp. Do sự đứt gãy văn hóa, các sư trong Nam cũng “phương tiện” tranh đàn bằng cách làm “mã Phật” – bồi tượng Phật và Bồ tát bằng tre, giấy, … sau lễ thì hỏa hóa. Và đương nhiên cách hành lễ “độc lạ” này đã gây ra làn sóng tranh luận nảy lửa trên mạng. Nhiều ý kiến tỏ ra bức xúc, cho đó là việc làm “khó hiểu”, “khó chấp nhận”, “xúc phạm đến niềm tin” của người Phật tử “trong tinh thần chánh tín Tam bảo” trước hành vi bị coi là “hủy hoại Phật tượng”. Thực ra đó là do hành giả chưa có sự am hiểu về nguyên tắc sử dụng mã vật trong nghi lễ Việt Nam. Chí có một vài vị thần, thánh sử dụng mã để thay thế ảnh tượng, một số đại diện bằng cỗ mũ, áo quần, có vị chỉ có bài vị, … Tuyệt nhiên không có khái niệm “Mã Phật”
Trở lại với bài viết, tác giả gọi đây là sự “bắt chước đạo gia đọc sớ cho quỷ thần nghe”, là “Lối mê tín hạ đẳng” và còn chế diễu ông hoả thần.
Xin thưa, sớ văn là tập hợp các văn bản hành chính cổ trung đại. Đây là thành tựu, dấu ấn của văn hoá Trung Quốc nói riêng và văn hoá Phương Đông nói chung, chẳng ai bắt chước ai cả. Và hành giả tự cho là người khác là hạ đẳng. Vậy người đã văn minh hơn ai chưa. Xin thưa vạn nhân vạn hạnh, mỗi người một việc làm một công đức, sao ông chê ông hoả thần kia. thế thì cũng có khác gì ông chê Hương Vân Cái Bồ tát. Hay lúc tụng kinh, niêm hương ông niệm vị nào khác chứ không nhờ Hương Vân Cái Bồ tát nữa (?!)
Lại xin mạn đàm nữa. nói về sự tích vàng mã, phe phản đối thường dẫn câu chuyện trong Sách Trực Ngôn Cảnh Giác của Trung Hoa kể lại rằng: Vương Luân là dòng dõi của Vương Dũ, vì không muốn nghề nghiệp gia truyền làm vàng mã bị mai một, nên cố gắng hết sức để chấn hưng nghề làm đồ mã, bèn lập mưu với người bạn thân, lên kế hoạch bí mật chết giả, bằng cách để người bạn thân đó giả vờ đau ốm cho mọi người biết, khoảng vài ngày sau Vương Luân loan tin người bạn thân đã qua đời, sau đó khâm liệm bỏ vào quan tài chờ ngày an táng. Nhưng sự thật thì người bạn của Vương Luân vẫn còn sống, tuy ở trong quan tài nhưng vẫn có lỗ trống ở dưới đáy để thở và đưa thức ăn vào. Đến ngày đưa đám tang, trong khi lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, Vương Luân đem giấy tiền vàng mã và những đồ dùng bằng giấy như nhà cửa, áo quần và hình nhân thế mạng, đích thân làm lễ cúng tế để cầu nguyện cho người bạn thân. Sau đó ông ta đốt hết giấy tiền vàng mã và hình nhân thế mạng.Khi đốt xong thì quan tài tự nhiên rung động, ai nấy đều mục kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra. Người bạn thân của Vương Luân quả nhiên sống lại, đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất cảm tạ và thuật lại cho mọi người nghe rằng chư vị thần dưới âm đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng nên thả hồn ông ta trở về cõi trần, nên ông ta mới được sống lại.Mọi người đều tin là thật và tin tức được loan truyền rộng rãi trong dân gian, nên đồ mã của Vương Luân sau đó lại được hưng thịnh như xưa. Nhờ thế các nhà buôn đồ mã lại làm giàu một cách nhanh chóng và phổ biến sang các nước chư hầu để tiêu thụ, trong đó có Việt Nam. Sau này do sự cạnh tranh nghề nghiệp, nên người bạn thân đã tiết lộ mưu kế gian xảo của Vương Luân và vì thế ngày nay chúng ta mới biết lai lịch việc này. Sau đó thì họ cho rằng ngay từ sự hình thành vàng mã đã là gian dối, trái đạo lí rồi. Xin thưa, nhầm to đấy! Đây không phải sự tích, vì sự tích là giải thích sự hình thành. Còn khi câu chuyện này xuất hiện thì đã có vàng mã rồi (“không muốn nghề nghiệp gia truyền làm vàng mã bị mai một”). Cũng như người ta hay nhầm là “sự tích cây khế” vậy. Có cây khế từ đầu câu chuyện rồi cơ mà! Phải gọi cho đúng là “cổ tích cây khế”. Sự tích vàng mã có lẽ bắt nguồn từ câu chuyện Đường Nhân Mục và Hành Cảnh Lí Công là đôi bạn thân, khi một người mất, người kia quá tiếc thương nên đã cắt áo giấy hoá cho bạn, ai ngờ chiếc áo hoá thành thật. Tại sao họ không ví dụ câu chuyện này nhỉ? Xem ra là “yêu nhau yêu cả đường đi/ ghét nhau ghét cả tôn ty họ hàng”.
Nói về các bậc hoà thượng cao tăng có phản đối đốt mã như hoà thượng Thích Tố Liên, … thì ta cũng hiểu đôi nét về bối cảnh lịch sử của các ngài. thời những năm giữa thế kỉ XX dân còn đói khổ, mà đốt vàng mã nhiều thì quả là lãng phí. Trên tinh thần “cứu một mạng người hơn xây 7 toà tháp” thì cần bớt đi phần này để dành tiền bạc cho việc cứu tế dân tình. Tuy nhiên đến ngày nay, xã hội cơ bản có ăn. Vậy có nên giữ tư tưởng đó không?
Nhìn sang các nước phương Tây, họ giàu đấy, nhà to cửa rộng đấy, thế nhưng bùng nổ nhiều thứ quái đản: những tôn giáo, giáo phái mới cổ động giết người, hiếp dâm, tự sát tập thể, … Đó không là gì ngoài sự băng hoại của các giá trị tinh thần xã hội do hệ quả của xã hội công nghiệp máy móc, xã hội tư bản theo lối con buôn, khiến cho họ bị mất phương hướng. Gia đình, máu mủ – tế bào của xã hội đang rạn vỡ. Cha mẹ có công việc, con có nhà trường, già có trại dưỡng lão, không ai phải quan tâm đến ai. Đúng như những gì Marx nói về vai trò của tôn giáo trong xã hội tư bản “Là tinh thần của xã hội không có tinh thần, là trái tim của xã hội không có trái tim”. sự thiếu vắng chỗ dựa tinh thần khiến phương Tây trao đảo. Liệu chúng ta rồi cũng thế không?
Hãy để Phương Đông là phương Đông, tình cảm, nhân văn, và thân ái. So với bao nhiêu nhà máy xả thải ùn ùn ra môi trường, vài tờ giấy mã thật sự chưa là vấn đề gì cả. Đổi lại đó là bao nhiêu số phận con người.
Vũ Trọng Khiêm, một người làm nghề vàng mã, đã cự lại báo Đuốc Tuệ và những nhà cải cách Phật giáo với lập luận: “Nếu quả vàng mã là mê tín dị đoan thời sao từ trước tới nay trong các chùa tăng ni đều dùng cả. Phật giáo thịnh nhất như đời Lý, đời Trần mà cũng chưa thấy chỗ nào nói cấm đốt vàng mã? (TGTT - Nhiều người cũng có suy nghĩ chung vì trong Hành trì bảo đỉnh của Trúc Lâm Tổ Đệ Tam Huyền Quang còn lưu lại đường phát hoả luyện kim ngân thần tiền. Có thầy châm biếm hóm hỉnh: “Đây là một trang trong đường phát hoả luyện kim ngân thần tiền trong “Hành trì bảo đỉnh” do Trúc Lâm Đệ Tam Tổ của nhà Phật truyền thì có dạy ra là kim ngân thần tiền mã vật là có thật. Nghĩa là Trúc Lâm Tổ Đệ Tam Huyền Quang có dạy đốt tiền vàng và mã kim ngân. Thế mà giờ lại bảo là không đốt mã. Xin hỏi cả nhà ngài Huyền Quang sai hay là giờ ta sai. Nếu ngài đúng là ta sai. Nếu ta đúng thì tổ sư Huyền Quang sai bét ra nhỉ. Có phải không cả nhà “. Thật thế, chắc tổ Huyền Quang lừa học trò rồi (?!)) Vả chăng hiện nay trong xứ ta từ thành thị tới thôn quê biết bao sinh hoạt về nghề vàng mã. “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Người nghèo làm vàng mã cho người giàu cúng đốt đi. Đồng tiền trong dân gian nhờ thế mà được san sẻ. Nay quý ban cổ động bài trừ sự vàng mã khiến cho lòng tín ngưỡng của quần chúng phân vân, mà đưa dắt biết bao gia đình vào cảnh chơ vơ thất nghiệp”.
Và cũng xin nhắc lại. Xin đừng để một ngày, chúng ra phải xin UNESCO bảo tồn khẩn cấp di sản văn hoá phi vật thể đại diện nhân loại: “vàng mã”.



0 Nhận xét