Đôi điều về bài "Đại chiến sòng sơn" của FB Trần thêm
Lần trước khi đọc bài quý vị, tôi chỉ nhắc nhẹ nhàng là "có rất nhiều vấn đề", tuy nhiên, cả bầu đàn quyến thuộc quý vị thì xông ra, khỏi phải nói, mỉa mai các kiểu. Như đã hứa, có thời gian rảnh đáp từ quý vị đây! Cũng chẳng phải sân si gì, nói thật với thầy là chúng tôi còn bận học, bận làm, mà lương tâm đặt bút là phải chính xác, không thể ngồi viết kiểu giời hơi, suy diễn chủ quan. nên chắc để quý thầy chờ lâu.
Tôi vẫn chỉ muốn nhấn mạnh lại một điều rằng: "Nếu như đã biết rằng: “nhân quả không chỉ riêng với người mà còn cả đạo nữa” vậy thì đã tu thì tu cho trọn kiếp, chớ tạo ra nghiệp chướng mà mang tội. Thực sự, các tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam đều hoà quyện, gắn bó mật thiết với nhau, cùng nhau vượt qua những thử thách, sóng gió của lịch sử, góp phần hình thành nên bộ mặt văn hoá dân tộc ngày hôm nay. Đạo nào cũng cao quý, nhưng cao quý nhất là đạo đức. Làm sao để thế nhân thấy những người có đạo là những người có đức, có công giữ gìn nền văn hoá dân tộc thống nhất mà đa dạng. Đó mới là việc đồng quan, lính thánh cần làm."
******
“ĐẠI CHIẾN SÒNG SƠN”…
Nguyên văn bài "thầy Thêm" dạy học trò
Thưa thầy, dạo gần đây chúng con có nghe trên mạng xã hội nói nhiều về “Đại
chiến Sòng Sơn”… nhiều con đồng trong đạo tranh luận và mỗi người một ý kiến
khác nhau. Nay xin thầy giảng giải cho chúng con được biết và hiểu rõ ạ ?
Được các con ta,
Trước đây khi còn ít tuổi ta cũng nghe chuyện đại chiến Sòng Sơn với
rất nhiều phiên bản khác nhau: Nào Mẫu bị thượng sư Đạo giáo đánh bại, rồi Mẫu
bị Thượng sư Đạo sỹ của Nội Đạo giáo bắt giam, nào Mẫu được Phật tổ giải cứu, Phật
bà Quan Âm giải cứu…
Ta thấy nhân thế đang hiểu sai và hạ thấp danh dự bôi nhọ Mẫu của tín
ngưỡng đạo nhà.
Ta đã được các cụ giảng về chuyện này và đã được câu trả lời xác đáng.
Nay ta giảng lại cho các con được biết và hiểu cho đúng.
Đời nhà Lê vào cuối thế kỷ 17 có phái Đạo giáo Thần Tiên Trung Quốc tu
theo dòng phù thủy bắc Thiên sư chính nhất giáo do Trần Đoàn (thực tế Nội đạo tràng là một giáo phái riêng chứ không phải là Đạo giáo Trung Quốc - TGTT chú) lập tại Thanh Hóa
được tôn xưng là Thượng sư thời bấy giờ, mấy đời dòng họ phù thủy này phò tá
vua Lê Và chúa Trịnh, tự mình tách dòng sơn môn lấy danh là “Nội Đạo Tràng”.
Bởi luôn giữ thế độc tôn trong cung vua và phủ chúa trong lĩnh vực tâm linh,
cũng bởi được quyền chi phối về tâm linh trong triều đình phong kiến thối nát
thời hậu Lê chúa Trịnh nên dòng đạo này thời đó rất thịnh hành, nhiều phương sỹ
và Nho sỹ theo vào.
Nhưng vật cực tất phản, có thịnh ắt có suy. Khi danh lợi đã ăn mất bản
chất của người tu đạo và dẫn đến dòng đạo này biến chất không còn tính tôn
giáo, mà chỉ còn tính chính trị và danh vọng tiền tài, tranh đấu, không giúp gì
cho dân cho nước mà đặc biệt lại dùng biện pháp cực đoan.
Bối cảnh lịch sử thời hậu Lê chúa Trịnh đó chiến tranh giữa đằng trong
và đằng ngoài lại giặc giã liên miên, triều đình và tầng lớp trên thì chỉ thích
phương sỹ đạo Giáo, không quan tâm và thậm chí bài xích Phật giáo, cũng ảnh
hưởng tới truyền thống Phật giáo của dân tộc.
Đặc biệt lại học theo tư duy phong kiến trọng Đạo giáo của nhà Minh với
lý do quá trọng Phật giáo của các tiền triều dẫn đến nhà Tống nhu nhược, đạo Phật
không có tinh thần dân tộc, dẫn đến dân chúng yếu mềm để thua dân Mông Cổ dẫn
đến mất nước.
Rồi cũng bởi kinh sách và pháp môn tu tập của ta thời bấy giờ bị nhà
minh đưa sang dẫn mê…
Phật giáo cũng vì thế mà không hưng khởi lên được nữa. Nhất là lúc
trước quân nhà Minh khi chiếm Việt Nam đã tịch thu hết kinh điển Phật giáo, đốt
phá sách kinh, bài xích tăng ni … nên dù có những bậc mộ đạo Phật đến đâu cũng
không lấy tài liệu mà nghiên cứu. Bởi thế, thời nhà Lê các tăng đồ lúc ấy kể cả
khi nước được độc lập, tự trị, dù có cố duy trì lấy đạo Phật thì chẳng qua cũng
là một sự tín ngưỡng theo hình thức dân giã. (Giã viết sai chính tả)
Trong khi tầng lớp theo Đạo giáo hay phương sỹ thời đó lại xa rời dân
gian, nó chỉ dành cho người biết chữ có học hay còn gọi là tầng lớp trên và
nặng về hình thức cùng tiền tài, lại kết hợp với Nho giáo thủ cựu lên đối với
dân chúng nó không giúp được gì với thời buổi loạn lạc mà thậm trí mất niềm tin
với đạo này, chỉ có sự sợ hãi bởi những phương thuật phù thủy của dòng đạo này
mà thôi.
Nên khi đó Đạo Mẫu là cứu cánh duy nhất của dân tộc, là nơi nương tựa của dân
chúng và những người cùng khổ, khi nghèo đói và chiến tranh giặc giã...
Thời Lê là thời điểm mà Đạo Mẫu hoành dương cao nhất, nơi nào cũng có
đền và miếu thờ của đạo nhà, lấy Thánh Mẫu là thần chủ, người mẹ đại diện của
nhân dân nên đạo ta phát triển trong dân chúng đè bẹp mọi tôn giáo ngoại lai
khác.
Thời gian đó với địa vị là kẻ chủ đạo thống trị về tâm linh, ở triều
đình và chính trường cả cung vua lẫn phủ chúa với đa phần Nho sỹ đều có theo
học Nội Đạo tràng chính nhất, dòng đạo này càng ngày càng thấy có nguy cơ mất
địa vị trong dân gian vào tay đạo Mẫu nên mấy Nho sinh thủ cựu truyền thống và
trọng nam khinh nữ với lý luận, cho rằng một phụ nữ không thể là Thần chủ của
một tôn giáo và các đạo sỹ thượng sư của Nội Đạo tràng bàn nhau dựng lên một
câu truyện mà sau này ta gọi là “Sòng Sơn đại chiến”.
Cũng bởi triều đình phong kiến cũng sợ nhân dân theo vào đạo Mẫu quá
lớn ảnh hưởng sự thống trị lên càng dung túng cho câu chuyện này.
Đầu tiên tuyên truyền xuyên tạc là Mẫu đã bị vài thượng sư đạo sỹ của
đạo tràng đánh thua và bỏ chạy. Nhưng dân chúng vẫn không tin và theo vào nương
tựa nhiều hơn, chúng lại tuyên truyền các thượng sư đạo sỹ đã bắt được Mẫu vì
tội tác yêu tác quái, trêu chọc chúa Trịnh khi đi qua Sòng Sơn.... nói chung là
nhiều dị bản... nhưng vẫn là hòng xóa bỏ và mất uy linh của Mẫu và nhằm giữ thế
độc tôn của Đạo giáo và Nho giáo.
Dần dần câu truyện càng phát triển và nhiều dị bản.
Cũng nhân một số người mộ đạo Phật thời bấy giờ vẫn muốn phục hưng Phật
giáo lại ghép thêm đoạn cuối, rằng Mẫu đã được Phật Tổ cứu, hay Mẫu được Nam
hải Quan Thế Âm cứu..... trong khi tôn chỉ của đạo Phật là tự giác tự tại tự
cứu chứ Phật thì không trực tiếp cứu ai, ngay cả dòng họ Thích của Phật, Phật
cũng chỉ truyền đạo chứ không cứu.
Nói chung là bởi thời điểm Hậu Lê nhà vua cũng không thích Phật giáo.
Nhiều triều đại nhà lê từ thời Lê Thái Tổ: Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429 – Lê
Thái Tổ) đều mở một kỳ khảo hạch tăng ni, người nào trúng tuyển thì được ở chùa
tu hành, người nào hỏng khảo hạch thì phải hoàn tục. Thậm chí hậu lê còn có vua
lấy đầu sư tăng làm thớt để dóc mía (nhầm với thời Lê Long Đĩnh), mà tầng lớp thống trị phong kiến thối nát
thì chỉ thích theo Nho giáo cổ hủ truyền thống và phương sỹ của đạo Giáo.
Với bối cảnh chiến tranh loạn lạc và giặc giã liên miên đạo Phật bị bài
xích thất sủng cả ở Việt Nam lẫn Trung Quốc.
Thời này Nho học đã thật làm bá chủ cho văn hóa, các sĩ phu xô nhau vào
khoa cử, miệt mài trong tư tưởng Tống nho (đoạn trên vừa nói nhà tống theo đạo Phật), triết lý nhà Phật không làm danh làm
lợi cho ai, tất bị bỏ quên.
Việc tu theo Đạo Tràng càng phát triển đối với hạng ít học (đoạn trên vừa nói dành cho người tầng lớp trên) chỉ thành
một kế quyền nghi theo hình thức, với hạng sĩ phu thì chỉ là một chỗ để người
nào lận đận công danh, chán nản cuộc thế,bất bình với thói đời, nghĩa là chỉ
những người yếm thế mới tìm đến để tiêu giao ngày tháng, mượn cảnh..., thần
tiên, đôi khi dùng phương thuật phù thủy để kiếm ăn...
Thời điểm bây giờ, những Nho sỹ và đạo sỹ thượng sư, tăng già, sỹ phu...không
giúp gì cho nhân dân kể cả về phần đời sống thực tế lẫn đời sống tâm linh … thì
đạo Mẫu ra đời trên nền tảng đạo gốc có sẵn của dân tộc ngàn đời trên truyền
thống tín ngưỡng nữ Thần. một bản sắc Bách Việt có hàng ngàn năm của dân Bách
Việt là cứu cánh nương tựa cuối cùng.
Vậy nên câu chuyện đại chiến Sòng Sơn là sản phẩm thêu dệt và bài xích
nhằm hạ thấp tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc, là công cụ của tầng lớp cực đoan
muốn độc tôn thống trị đời sống tâm linh Việt. Âm mưu đó không thành công tuyệt
đối nhưng cũng vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay, nó là đám tro tàn cho vài kẻ đạo
gia thời mới lấy đó làm lý do bới móc đạo nhà, là sản phẩm tàn dư cho mấy tay
sư bới móc như vụ chùa ba vàng.
Nay theo chuyện mà luận có vài lời đến những người con của đạo nhà được
biết:
Nếu đã tín Thánh & đạo nhà của dân tộc có thể đọc để cho vui chứ
không thể cho câu chuyện đó là thật.
Chỉ có vị Hoàng Đế đại tài như Vua Quang Trung mới nhìn thấy tính tích cực yêu nước của Đạo Mẫu với dân tộc này. (Ông Khải Định cũng tín mẫu lắm thì ông Khải Định cũng là Minh Quân cực kỳ yêu nước chăng??)
Ta cũng nói thêm Phật giáo Việt Nam thời Vua hậu Lê Quang Trung (là thời nào???) Nguyễn
Huệ và Thời nhà Nguyễn sau này phát triển được cũng nhờ rất nhiều vào Đạo Mẫu
và cũng giải thích cho các con tại sao có tiền Phật Hậu Thánh ?
Năm Quang Thuận nguyên niên (Lê Thánh Tôn), sắc cấm các Tăng đạo không
được qua lại với nhân dân trong thành. Năm sau sắc cấm dân gian không được làm
thêm chùa vì nhân dân lúc ấy vẫn có sùng tín đạo Phật (sao đoạn trên bảo thời Lê Phật giáo tàn tạ lắm), trong khi đó chùa chiền
bị giặc Minh đập phá gần hết, triều đình nhà Lê bài xích đến nỗi tăng đồ bị cấm
không được giao thiệp với dân vậy nên trong thời buổi đó không có thêm được một
vị cao tăng. Gần như thời gian đó tinh thần đạo Phật đã tuyệt diệt.
Sự ngăn cấm này là vua lo ngại tín ngưỡng đạo Phật hình thức rộn ràng
ấy sẽ nguy hại cho dân tộc và làm suy yếu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc và
cũng nghe lời dèm siễm thiên vị của các đạo gia Nho sỹ.
Sự bài xích của giới Nho đạo thời đó lên tới đỉnh điểm khi lập những đạo tràng giảng pháp đánh phá trực tiếp vào giáo lý cõi tạm của đạo Phật. ( wow nhà nho lập Đạo tràng 🙂😆)
Vì lệnh cấm xây chùa thời nhà Lê nên sinh ra chuyện khi dựng chùa cũng tiền Phật hậu Thần: dân chúng lúc đó theo truyền thống “chùa là bùa Làng” nên làng phải có chùa, nhưng khi kiến thiết lại làng xã sau chiến tranh không được xây dựng chùa lên bèn kết hợp với phong trào xây phủ Nhà Mẫu. (Nghe có vô lý không)
Thời đó nhà Lê rất trọng Đạo Mẫu và tín Mẫu, tín chư Thánh, phúc Thần
quốc gia (sao khúc trên bảo Triều đình dung túng cho thuyết Đại chiến Sòng Sơn bôi xấu đạo mẫu??) đặc biệt từ đời Thái Tổ thuận Thiên đến sau này năm nào cũng ban sắc
cho các vị Thánh nhân Việt.
Vậy nên xây nhà Mẫu kèm với xây dựng chùa để lách luật và cũng là nhân
quả bởi câu truyện này. Và Đạo giáo kể cả Nội Đạo tràng bị loại bỏ dần ra khỏi
địa vị chủ đạo trong tâm linh của dân tộc cũng bởi suy rồi nên quá cực đoan khi
luôn muốn bài xích các tín ngưỡng khác dẫn đến mất niềm tin của dân chúng với
Đạo Mẫu.
Nhân quả của câu truyện này, đến bây giờ cũng vẫn có vài kẻ đạo gia
thời mới cũng có luận điểm bài xích cực đoan và có thêm vài vị sư vong bản phản
tổ cũng đang cực đoan mà bám vào câu chuyện kia để bài xích đạo nhà.
Cho đến nay Nội Đạo Tràng chỉ còn một số phương thuật và pháp sự đồng
nguyên giao thoa từ xa xưa còn dung nhập vào đạo của dân tộc mà thôi. Vậy nên
nhân quả không chỉ riêng với người mà còn cả đạo nữa.
Ta giảng như vậy các con đã hiểu chưa ?
Đáp:
Và cũng do không có sự nghiên cứu kỹ càng, nhãn quan thiên lệch biến tướng bệnh hoạn, nên khi quán xét các sự vật, hiện tượng thì đồng thầy cho ra những sản phẩm vô cùng khó chịu.
Tinh thần dị đoan bài xích tôn giáo ấy còn xuất hiện trong một số bài viết khác như: “Nếu thờ, hãy thờ đức Thánh Trần” (nghe tên bài đã sặc mùi cực đoan, dân tộc chủ nghĩa). sẽ không có gì đáng nói nếu như đồng thầy đơn giản chỉ là ca ngợi công lao và âm đức của đức Thánh. thế nhưng ông đã dùng thủ đoạn chính trị hạ tiện: muốn mình cao lên thì phải dìm người khác xuống – hạ bệ Quan Công – 1 vị Thánh có vị trí khá quan trọng trong tín ngưỡng Việt Nam. Bài viết cho rằng, ông được ca ngợi là “tuyệt nghĩa”, song không thể “nghĩa” bằng Trần Hưng Đạo được; đơn thuần ông chỉ là công cụ của giai cấp phong kiến Trung Quốc, và về mặt tín ngưỡng, ông cũng chỉ xứng đáng làm “thần chủ” cho tín ngưỡng của dân “xã hội đen”. Trong bài viết này cũng vậy, để đề cao “đạo Mẫu”, thì quý khầy không tiếc công chà đạp đạo Phật và đạo Lão. Xin thưa, Phật giáo vốn có vai trò như quốc giáo ở Việt Nam, Đạo giáo thì ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi hình thức tín ngưỡng nước ta. Dùng thủ đoạn này đối với Phật giáo và Đạo giáo thì chẳng khác nào khầy Trần đang chứng minh rằng vị trí của tín ngưỡng Tam tứ phủ trong xã hội Việt Nam đang có phần yếm thế và cần phải có những con tốt thí những thủ đoạn chính trị của lũ cáo già như vậy để vớt vát lại. Như vậy khầy chỉ đang xúc phạm thêm tín ngưỡng thờ mẫu mà thôi chứ không hề "hoành dương" (chữ của khầy vẫn dùng) đạo một tí nào!
Câu chuyện về “đại chiến Sòng Sơn” không phải là mới lạ, nó đã được biết đến từ lâu và được giới nghiên cứu đánh giá, mổ xẻ kỹ càng về nội dung, giá trị, … sử dụng câu chuyện này xem ra chẳng phải điều gì mới lạ. Thủ đoạn chủ đạo ở đây của đồng thầy là cho rằng “đạo Mẫu” là “quốc giáo” của Việt Nam, là “cứu cánh tâm linh” của dân tộc, vị trí của Phật giáo và Đạo giáo hiện nay chỉ là dựa hơi “đạo Mẫu”, chứ những tôn giáo ngoại lai ấy hoàn toàn không đáng để có được vị trí trong lòng dân tộc này. Cái gốc tư tưởng của quan điểm này chính là tinh thần tự nhục “Ta thấy nhân thế đang hiểu sai và hạ thấp danh dự bôi nhọ Mẫu của tín ngưỡng đạo nhà.”. Do không hề hiểu ý nghĩa của câu chuyện, nên lúc nào cũng nơm nớp, sợ người ta nói xấu, hạ bệ mình. Nguyên nhân trực tiếp tác giả cũng “tự khai”, xem ra đó cũng là sự “ăn miếng trả miếng” với “mấy tay sư bới móc như vụ chùa Ba Vàng”. Chính vì tư tưởng chỉ đạo sai lầm mà con mắt ông đồng chỉ quẩn quanh quán chiếu sự việc được đến vậy và kết quả chỉ là sự thù hằn mà thôi.
Vậy, qua câu chuyện “Sòng Sơn đại chiến” ta cần thấy được điều gì? Để hiểu được nó, điều đầu tiên ta cần biết ai là người đã viết tác phẩm trên. Tài liệu “Tín ngưỡng Tam Tứ phủ và thờ Thánh Việt Nam” của TS. Bùi Hùng Thắng có dẫn câu chuyện với cái kết Mẫu được Phật tổ cứu với chú thích lại “phần truyện trên là huyền tích về công chúa Liễu Hạnh truyền miệng trong giáo chúng theo phái Nội Đạo”. Còn một câu chuyện nữa là Mẫu được Phật bà Quan Âm cứu do Phạm Đình Hổ ghi lại trong “Tang thương ngẫu lục”. về 2 bản này ta hãy thử trả lời câu hỏi: nếu câu chuyện trên là do Nội đạo tràng sáng tác thì sao họ không tự lấy giáo chủ của mình làm người đứng ra cứu Mẫu cho thêm phần oai linh? Ví dụ như Thái Thượng, hay Thượng không Phật bay đến cứu Mẫu, và cái kết chuyển thành, Quan Thánh đưa cho Mẫu một bộ đồ lam, giày vải, và Mẫu trở thành Đạo cô chứ không phải trở thành ni cô? Hay đơn giản hơn là kết câu chuyện ở chỗ Mẫu bị Quan Thánh khuất phục và quy hàng? Còn về tác giả “Tang thương ngẫu lục” ông là một nhà Nho, nhưng không phải một nhà Nho ngoan đạo và chính thống của giai cấp phong kiến. bằng chứng là thái độ phê phán kín đáo với nhiều mặt của chế độ phong kiến đương thời trong nhiều câu chuyện khác ngay trong chính tác phẩm “Tang thương ngẫu lục”. Ông còn là người nhiều lần xướng hoạ ăn ý với Hồ Xuân Hương, kẻ thù không đội trời chung với hủ Nho và Phong kiến đương thời. Nếu như vậy thì sao ông có thể là người “tải đạo”, người tuyên truyền cho quan điểm của “mấy Nho sinh thủ cựu truyền thống và trọng nam khinh nữ” được? Và nếu câu chuyện trên do ngoại đạo, có ác ý bày ra thì sao nó lại được lưu trữ trong “Vân Hương Thánh mẫu tam vị đại từ tôn” tàng bản tại đền Sòng? Vậy tác giả câu chuyện thật sự là ai? Cách hiểu sao về nó mới thật sự có ý nghĩa?
Câu trả lời xác đáng cho câu hỏi này chính là: đây là sáng tác của quần chúng nhân dân. Tại sao khẳng định vậy? Nếu nhìn lại 1 cách có hệ thống, ta thấy cả một hệ thống những văn bản cùng loại, cùng hoặc gần thời kỳ với “Tang thương ngẫu lục”: Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh, Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, … mà đặc điểm của chúng là hầu hết là những truyện dân gian nhưng thời điểm xuất hiện khá muộn, được nhiều tác giả bác học đương thời sưu tầm, thuật soạn và đều được xếp chung vào hàng Văn học trung đại (Sổ tay Ngữ văn 6 – Nguyễn Xuân Lạc – Nxb. Giáo dục). Đây là một khoảng trống của ngành Văn học dân gian với quan điểm “chỉ nghiên cứu thần thoại chứ không nghiên cứu tiên thoại, Phật thoại” – tức là chỉ nghiên cứu những tác phẩm ra đời vào thì kì khuyết sử, thượng cổ, … mà thực sự tác giả là quần chúng nhân dân, thể hiện cái nhìn, quan điểm của mình về vũ trụ, về sự sáng thế, … chưa có sự ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo (Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam – tập I – Văn học dân gian. Nhiều tác giả (GS. Bùi Văn Nguyên, GS.Hoàng Tiến Tựu, …) – Nxb. Giáo dục. 1978). Còn lại, những tác phẩm có thể do nhân dân sáng tác song không thoả những yêu cầu trên vẫn còn đang bỏ ngỏ, chưa có một phân ngành rõ ràng lấy chúng làm đối tượng nghiên cứu. Tuy vậy, phải khẳng định rằng, ngay cả bản thân tư tưởng tôn giáo cũng là một bộ phận của ý thức dân tộc, phản ánh những tư tưởng, suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng và khát khao của quần chúng nhân dân, phản ánh thực tại khách quan và bối cảnh lịch sử. Vai trò của của quần chúng nhân dân với tiến trình lịch sử là vô cùng vĩ đại. Một người, hai người dân, … thì có thể bị dẫn dắt, định hướng, bị che mắt, song toàn thể quần chúng nhân dân với thời gian lịch sử lâu dài thì những gì còn lại chính là “bia miệng”, chính là thái độ đánh giá, phán xét của nhân dân, của lịch sử. sự phán xét ấy là công minh nhất, chỉ có thể tiếp thu chứ không thể đi ngược. Với câu chuyện “Sòng Sơn đại chiến” cũng vậy, cho dù có người cố tạo ra nó đi chăng nữa (chứ chưa nói đến chuyện không thể chứng minh được cái “thuyết âm mưu” ấy), Do điều kiện lịch sử, mà không phải chuyện gì cũng có thể “hai năm rõ mười”, mà nhiều khi phải “chân sự ẩn”, “giả ngữ tồn”, “giả ngữ thôn ngôn”, “mượn gió bẻ măng”, “chỉ trăng nói quế”, … thì nội dung câu chuyện cũng cần phải được hiểu là thái độ của nhân dân với các tôn giáo, tín ngưỡng và bối cảnh lịch sử đương thời. Chính vì không hiểu lí do đó mà tác giả thấy nhưng không hiểu nhiều chi tiết trong câu chuyện như “… đoạn cuối, rằng Mẫu đã được Phật Tổ cứu, hay Mẫu được Nam hải Quan Thế Âm cứu..... trong khi tôn chỉ của đạo Phật là tự giác tự tại tự cứu chứ Phật thì không trực tiếp cứu ai, ngay cả dòng họ Thích của Phật, Phật cũng chỉ truyền đạo chứ không cứu.”. tác giả không hiểu vấn đề là, do nhân dân là người sáng tác nên câu chuyện, nên Đức Phật trong câu chuyện cũng là Đức Phật với quan niệm của nhân dân – thần thông, từ bi, luôn giúp đỡ, cứu người hoạn nạn.
Mối quan hệ giữa Mẫu Liễu và Nội Ðạo tràng phán ánh sự xung đột trong các
nhóm phái của Đạo giáo phù thuỷ ở Việt Nam, là quá trình chuyển hóa để hình thành
một dòng Ðạo mới. Những lần “sinh – hóa – sinh” tại đất Nam Định của Mẫu Liễu Hạnh trong hơn một thê kỷ đã cho thấy sự “đấu tranh “ trong chính nhóm phái Ðạo giáo phù thuỷ này, với khuynh hướng dung nạp thêm các yêu tố thần tiên (như huyền tích về thân thế Mẫu Liễu Hạnh,...) và phản ánh nhu câu “kiểm nghiệm” ở ngoài vùng đất phát sinh của nó. Thưc chẩt, những gi ẩn chứa bên trong sự hành đạo của Thánh Liễu mới là xu hướng chính của nó, được thể hiện trong những truyền thuyết về những chuyến du hành, những chuyến “tiêu diêu” của Thánh Liễu khắp đất Việt, từ Lạng Sơn, Cao Bằng vê Hà Nội, vào Thanh Hóa (mà sau này các nơi Bà đến đều có đên thờ ở mười huyện). Theo truyền thuyết, những nơi này đêu là những danh thắng, những nơi sơn thuỷ hữu tình và Bà thường thích gặp gỡ với những “tao nhân mặc khách” thích xướng họ thơ phú, tất cả những biểu hiện này đều chỉ ra phong cách của những đạo sĩ thần tiên. Thế giới quyền năng của Mẫu Liễu đã cho thấy ưu thế của yếu tố thần tiên trong xu huớng phát triển Đạo giáo việt Nam từ thể kỷ XVI – XVII trở đi. Nó đã được dung hợp trong một nhóm phái Ðạo giáo phù thuỷ. Sự thích ứng này đã làm cho tín ngưỡng thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh định hình rõ, phát triển và trở thành một dòng Đạo. Đó còn là một “tiêu chuẩn” để sau này Thánh Mẫu được chọn là một trong tứ bât tử của tín ngưỡng Việt. Như chúng ta đã biết, “Lên đồng” hay Shaman giáo là một hình thức tín ngưỡng sơ khai, xuất hiện vào thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, trước ngưỡng cửa của xã hội có giai cấp; còn tín ngưỡng Tam tứ phủ lại là nấc thang phát triển cao hơn của nó trong xã hội có giai cấp. Và dấu mốc đầu tiên cho chặng đuờng thứ hai của quá trình hình thành Tín ngưỡng Tam Tứ phủ, băt đâu từ thế kỷ XVII chính là thời kỳ Mẫu Liễu Hạnh ra đời. bộ mặt lúc này của Tín ngưỡng Tam tứ phủ lúc này mới chính thức đầy đủ như ta thấy ngày hôm nay. (lại nói thêm, tức là không có chuyện “lịch sử đạo Mẫu trải 5000 năm với tín ngưỡng nữ thần” – hai tín ngưỡng hoàn toàn phân biệt, không thể đánh tráo khái niệm)
Cuộc chiến Sòng Sơn đã phán ánh một khía cạnh khác của dòng phái Đạo giáo phù thuỷ Việt Nam từ thể kỷ XVII trở đi là, dù được bắt đầu phát triển trở lại nhưng nếu muốn tồn tại, phái này phái “núp bóng” Phật giáo. Theo truyền thuyết, “cuộc chiến” này diễn ra là vì Liễu Hạnh đã gây tai họa cho những người dân Thanh Hóa, chuyện được tâu lên nhà vua và Tam Thánh của Nội Ðạo Tràng đã được cử đến để diệt trừ. Cuộc Thánh chiến này là một sự “cân tài, cân sức” giữa những giữa những đạo sĩ phù thuỷ. Phép “lục trí thần thông” của Liễu Hạnh đã bị phép thuật “thượng không” của Tam Thánh hóa giá, Liễu Hạnh thua và bị bắt giải về triều đình. Cũng theo Vân Hương Thánh Mẫu tam vị đại từ tôn thì, nguyên nhân Mẫu Liễu thua các pháp sư Nội Đạo Tràng là bới lúc đó bà chưa được thụ pháp của nhà Phật. Điều này khẳng định lại một lần nữa vị trí của Phật giáo trong tâm tưởng nhân gian. “Tam thiên thế giới Phật tại ngoại”, Phật là người đứng ra ngoài luân hồi là tối thượng, đường lối từ bi, giải thoát của đạo Phật là đường lối duy nhất đúng cho mọi tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Mẫu Liễu và Nội Ðạo Tràng còn là sự phản chiếu đời sống
xã hội, đời sống tư tướng và tình cảm của người Việt thê kỷ XVII. Đó là những xung đột về xã hội – chính trị được phản ánh qua truyền thuyết về cuộc chiến Sòng Sơn giữa các nam Thánh Nội Ðao Tràng với nữ Thánh Liễu Hạnh, là sự phản kháng của xã hội đối với triều đình bất tài, không thể đem lại cuộc sông yên lành, hạnh phúc cho người dân. Đây cũng là sự phản kháng, sự đả kích tập đoàn thống trị của chúa Trịnh, được thể hiện qua sự thất bại của viên quan Trịnh Hoàng Thúc do chúa Trịnh cử đi đánh Mẫu Liễu Hạnh trên đèo Ba Dội (Bỉm Sơn), đã được kê trong bản phả Vân Hương Thánh Mâu tam vị đại từ tôn của phủ Sòng. Và nêu theo cách nói ngày nay thì cuộc chiên Sòng Sơn hay sự đối kháng giữa các nam pháp sư – tiên nữ Liễu Hạnh và chiến thắng cuối cùng của Bà (được Phật Quan Âm cứu và truyền tiếp đạo pháp, được đựng đên thờ, làm một nữ thần ở vị trí tột đinh – Thánh Mẫu) cũng là một hình thức đâu tranh cho sự bình đẳng giới trong “lãnh địa “ thần quyền. Dường như, dòng đạo này dần trở thành Đạo của những người phụ nữ. Theo họ, nó có thể đem lại quyền lực cho phụ nữ (dù chỉ ở thế giới tinh thần) và số lượng các nữ “tín đồ” của Tín ngưỡng Tam Tử Phủ ngày một tăng đã nói lên điều đó. Đây là lúc tôn giáo tín ngưỡng thực hiện chức năng “thuốc phiện” như Marx đã khẳng định. Câu chuyện đại chiến Sòng Sơn, ở khía cạnh này có ý nghĩa như tác phẩm “Tây du ký” hay những câu chuyện về “Tế Điên hoạt Phật”. Tề Thiên là đại biểu của thủ lĩnh nông dân, không thể chiến thắng được pháp luật – cương thường Phong kiến (mà đại biểu là Phật tổ, chiếc vòng kim cô của Quan Âm). Tuy nhiên Ngộ Không vẫn là “Đại Thánh” không sợ ai, thần thông tự tại.
Câu chuyện “Sòng Sơn đại chiến” còn phản ánh sự hạn chế của phái Nội Đạo tràng. Mẫu Liễu Hạnh tuy thua và bị bắt giải về triều đình, nhưng điều kỳ lạ ở đây là sau đó, ở Thanh Hóa đã có tới 48 đền, phủ thờ Bà (được “thống kê” vào thời Lê Cảnh Trị, 1663 – 1671), có lẽ cũng không kém so với Nam Định – nơi sinh thành của Thánh Mẫu. Còn phái Nội Đạo Tràng đã từng có hàng ngàn môn sinh Ở các tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nội, Hưng Yên và Hải Dương, có hẳn trường dạy hành đạo ở các nơi này, vậy tại sao sau cuộc chiên Sòng Sơn, nhóm phái này chiến thắng mà lại không tiếp tục phát triển được để rồi sau đó dần thu hẹp lãnh địa. Không gian các tỉnh miền Bắc Việt Nam đã dần trở thành không gian của các đền, phủ thờ Mâu Liễu Từ các nguồn sử liệu, chúng ta đều biết, khi xảy ra loạn phân tranh của hai tập đoàn phong kiểu Lê – Trịnh trên đất Bắc Việt Nam từ thể kỷ XVI rồi sau đó là thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, sự mất ổn định cả về chính trị lẫn kinh tế đã đưa lại vô vàn khó khăn và tạo nên sự mất ổn định cho cuộc sống của người dân, cho từng thân phận. Sự phán hóa và rối loạn trong xã hội với những oan trái, bất công, những gánh nặng của cuộc sống đã vượt ra ngoài sức gánh vác của con người. Trong hoàn cảnh đó giúp họ có thể vượt qua được chính là niềm tin vê quyền năng độ thế của các thần Thánh hay một lực lượng siêu nhiên nào đó. Lúc này, dù tiếng tăm, pháp thuật “cao tay” của các pháp sư Nội Ðạo Tràng cũng chỉ giải quyết được về mặt tâm linh các vấn đê bệnh tật, thiên tai, dịch nạn (như Tang thương ngẫu lục đã chép), còn giải quyêt các vấn đề lớn của xã hội thì “nội lực” của họ lại không đạt tới được. Cùng lúc này, trong đời sống tâm linh của người dân, niêm tin về quyên năng của Mẫu Liễu bắt đầu tăng thêm do có thêm sự ủng hộ của Phật giáo (được phản ánh trong truyền thuyết vê sự thụ pháp Phật của Mẫu Liễu Hạnh sau cuộc chiến Sòng Sơn). Theo tinh thần Phật giáo, Mẫu Liễu có thể thấu hiểu nỗi khổ của người dân với tâm lòng Bao dung, độ lượng và nhân từ. Quyền năng của Bà dường như ngang cùng Phật Bà Quan Âm, có thể cứu khổ cứu nạn cho dân. Rõ ràng, để cầu ước cho cuộc sống mới tốt hơn thì một thần tượng văn hoá mới cần được ra đời để đáp ứng điều đó, sự ngưỡng mộ Liễu Hạnh đã phát xuất từ chính mong mỏi này của họ. Đồng thời hình tượng về vị Thánh mới này lại rất phù hợp với ước vọng vốn ẩn sâu trong tiềm thức của người Việt về quyền năng vô hạn của các nữ thần. Tín ngưỡng thờ nữ thần, thờ mẹ vốn có từ trước, đã là một sức mạnh ẩn tàng cho các sáng tạo thần tượng, lúc này có dịp bộc lộ và thực hành trong đời sống tâm linh. Chinh vì thế mà ngay từ cuối cuộc chiến Sòng Sơn, dù cho có sự nghiêm khắc của các pháp sư, nhưng Mẫu Liễu Hạnh vẫn không bị diệt trừ mà lại được Phật Quan Âm cứu giúp, truyền thêm đạo pháp để cứu dân giúp đời và rồi sau đó đền thờ bà mọc lên khắp nơi. Từ sự thất bại của nữ Thánh Liễu Hạnh trước các nam Thánh Nội Đạo Tràng lại đem đến một chiến thắng mới cho Bà. Chính vì những điều trên. Liễu Hạnh đã trở thành Thánh Mẫu và điều này còn cho thấy sức mạnh tính nữ trong văn hóa tâm linh Việt.
Qua cuộc Thánh chiến Sòng Sơn ta còn thấy sự bao dung, độ lượng, sự dung hòa trong văn hóa Việt được thể hiện trong đời sống văn hóa tâm lỉnh. Đó là sự phối thờ Mẫu Liễu với Tam Thánh của Nội Ðạo Tràng ở nhiều điện thờ Mẫu Liễu cũng như trong hậu cung thờ tam Thánh của ngôi chùa tổ Nội Ðạo Tràng Ở Thanh Hóa. Người dân ở đây đã đặt ban thờ Mẫu Liễu bên trái ban thờ tổ Nội Đạo Tràng trong hậu cung chùa Mậu Xương (Quảng Xương). Cũng với tinh thần trên, trong hệ thống di tích ở Phủ Các (xã Thành Vân, huyện Thạch Thành) có ngôi đền Quan Giám sát đứng đối diện qua suối Cá thần và vuông góc với đên Mẫu chính là nơi thờ Tam Thánh của Nội Ðạo Tràng, trên ban thờ là ba chiếc ngai và ba pho tượng Thánh. Thầy cúng và nhiều người cao tuổi ở Mậu Xương, An Ðông (Quảng Xương) kể rằng, ở điện thờ của Phủ Sòng (Bỉm Sơn) một trong ngũ vị tôn ông cũng là Thánh của Nội Đạo Tràng, ngài làm quan Giám sát. điện thờ của phủ Sòng cũ bị phá tan từ sau năm 1945, đến 1998 mới bắt đầu được xây lại và điện thờ đã được bố trí giống với ớ Phủ Dày. Dù vậy, lời các cụ ở Quảng Xương vẫn có độ tin cậy bởi qua so sánh với điện thờ ở Phố Cát, điện thờ ở Phủ Sòng chắc cũng vậy. Tuy là hai nơi nhưng là một, Phủ Ngoài (Phủ Các thuôc hệ thống thờ tự. Cá hai Phủ đêu tô chức cùng ngày hội Mẫu, theo lệ xưa là từ 15 đến 28 tháng Hai (âm lịch) nhưng nay chỉ còn trong các ngày 26 – 28 tháng 2. Hai phủ cách nhau 35 km, đều năm trên trục đường “thiên lý” quan trọng là xứ Thanh, nó nối mạch giao thông và giao thương với đất Bắc cũng như với đất Nam. Đồng thời đây cũng là con đường của hành trình Mẫu Liễu Hạnh vào Thanh Hóa (như Ngọc phả đã thuật vê những lần hiển linh của Bà trên đèo Ba Dội, Phố Cát...). Ngoài ra, chúng ta còn có thể đi sâu nghiên cứu thần điện (mở rộng) của hai phủ Sòng Sơn và phố Cát để thấy những khác biệt, nó đã tạo thêm sự hấp dẫn của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu. Chẳng hạn, Phủ Sòng mang nhiều yểu tố “thuỷ” hơn khi được biết thần chủ bản đền là Cô Chín giếng, cùng sự phối thờ với thần biển Ðại Càn quốc gia Nam Hải và Bát Hải đại vương (xưa có miếu thờ ớ thôn Cẩm La, thành phố Bỉm Sơn). Phủ Cát lại nghiêng vê yêu tô “thượng ngàn” hơn vì thần chủ bản đên là bà Chúa Mường (thần Rừng, cũng có miếu thờ riêng ớ xã Thành Vân, huyện Thạch Thành). Các tín đồ cứ truyền tin cho nhau rằng, phải đi cả hai nơi mới là hoàn thiện cuộc lễ mặc dù họ vẫn nói với nhau hai nơi này là một. Chính những khác biệt này đã tao ra sự thu hút để các tín đồ đến với Mẫu Sòng– Phô Cát.
Tóm lại, cũng như “Tây Du Ký”, hay nhiều tác phẩm mang đề tài tôn giáo khác, câu chuyện trên không phải là kinh điển tôn giáo, mà là tác phẩm của tác giả dân gian phản ánh tư tưởng của họ. Đó là ý nghĩa toát ra từ câu chuyện mà nhẽ ra một người hiểu đạo lý phải biết. nội dung ấy không ngờ lại trở thành trò chơi chính trị, thành học thuyết âm mưu.
Trên nhiều mặt khác, tác giả cũng không làm người ta thuyết phục.
Về mặt thuật ngữ, vô số thuật ngữ không chuẩn như: “Nội đạo giáo”, “Đạo giáo thần tiên Trung Quốc tu theo dòng Phù thuỷ” (thế là phái thần tiên hay phù thuỷ?!), “đằng trong – đằng ngoài”, “hoành dương”, … Tôn chỉ đạo Phật thì cho là “tự giác tự tại tự cứu chứ Phật thì không trực tiếp cứu ai” (tôn chỉ ấy phải là “tự giác, giác tha, tự độ, độ tha”, tự cứu mình, song cũng cứu giúp những người khác. Khi dòng họ Thích Ca gặp nạn, Đức Phật 2 lần ra cứu, song đến lần thứ 3 thì ngài không hiện lên nữa, vì đó là nhân quả. nhân quả không hoá giải vì cả 2 lần dù Phật đã thị hiện ngăn cản mà vua nước láng giềng không tỉnh ngộ, chưa buông hận thù). Lập luận thì phi logic, mâu thuẫn: trang trước khẳng định “đạo Giáo … chỉ dành cho người biết chữ có học hay còn gọi là tầng lớp trên “, đến đoạn sau lại khẳng định “phát triển đối với hạng ít học”. Luôn khẳng định, Nho giáo lo sợ, kì thị và cấm đoán Tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng lại cho rằng “Thời đó nhà Lê (Một triều đại độc tôn Nho giáo) rất trọng Đạo Mẫu và tín Mẫu, tín chư Thánh”. Đáng buồn cười hơn là chi tiết “Tiền Phật hậu Thánh”. Với cấu trúc ấy mà dám nói là “xây nhà Mẫu kèm với xây dựng chùa để lách luật”. Thật ngông cuồng! “Tiền Mẫu hậu Phật” thì may ra nghe còn có lí.
Tác giả cũng không hề có cái nhìn khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Con mắt nhìn mang tính phi lịch sử, như một người từ đâu đâu nhìn về quá khứ, chứ không hề đặt bản thân mình vào bối cảnh lịch sử. tác giả luôn miệng gọi “tầng lớp thống trị phong kiến thối nát …”, song không nhận ra được vấn đề, trong tiến trình lịch sử, lúc này giai cấp phong kiến vẫn còn sứ mệnh lịch sử của nó, không phân biệt rạch ròi được tính chất tiến bộ hay lạc hậu của các tập đoàn phong kiến Lê sơ với Lê mạt, Lê – Trịnh, … mà gom hết lại theo kiểu cá mè một lứa. Đó là chưa kể đến những luận chứng theo kiểu … giời ơi, không hiểu lấy từ đâu ra. Căn cứ vào tài liệu nào mà tác giả khẳng định Nội đạo tràng “biến chất không còn tính tôn giáo, mà chỉ còn tính chính trị và danh vọng tiền tài, tranh đấu, không giúp gì cho dân cho nước mà đặc biệt lại dùng biện pháp cực đoan.”? Rồi cả chuyện nhà Minh trọng Đạo giáo? Nhà Tống nhu nhược vì theo Phật giáo? (Trong khi luôn lập luận là do nước ta lấy Tống Nho làm nền tảng nên Phật giáo bị thất sủng, thế chỗ đẻ ra Tống Nho lại sùng Phật ư?). Rồi là “đạo Phật không có tinh thần dân tộc, dẫn đến dân chúng yếu mềm”? (2 Triều Lý, Trần đánh tan quân Tống, quân Mông – Nguyên quốc giáo là gì? Kito? Hồi giáo?). Còn trong sách vở nào có nói “lúc trước quân nhà Minh khi chiếm Việt Nam đã tịch thu hết kinh điển Phật giáo, đốt phá sách kinh, bài xích tăng ni … nên dù có những bậc mộ đạo Phật đến đâu cũng không lấy tài liệu mà nghiên cứu. Bởi thế, thời nhà Lê các tăng đồ lúc ấy kể cả khi nước được độc lập, tự trị, dù có cố duy trì lấy đạo Phật thì chẳng qua cũng là một sự tín ngưỡng theo hình thức dân giã.”. Giặc Minh tiêu huỷ chung cả nền văn hoá dân tộc chứ không có tâm trí để ngồi lựa riêng “kinh điển Phật giáo, đốt phá sách kinh, bài xích tăng ni “. Thậm chí họ còn mang các sách Đạo giạo, Phật giáo của Trung Quốc sang. Vì mục đích của họ là làm lu mờ văn hoá Việt Nam, chứ không nhằm vào Phật giáo. Vì thế trước tác Phật giáo Việt Nam như Thiền Tông Chỉ Nam, Bình Ðẳng Sám Hối Khoa Văn của Trần Thái Tông, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập, Trúc Lâm Hậu Lục và Tăng Già Toái Sự của Trúc Lâm Ðiều Ngự và tám tác phẩm của Pháp Loa… thì thất truyền, song Kinh sách Phật giáo thì không hề tuyệt diệt. Vì vậy làm gì có chuyện “trong thời buổi đó không có thêm được một vị cao tăng. Gần như thời gian đó tinh thần đạo Phật đã tuyệt diệt.”. Nếu không có cao tăng xuất hiện thì sao có bức tượng vua Lê Hy Tông cõng Phật ở chùa Hoè Nhai.
Thực sự, thời Lê tuy không ngăn cấm hoàn toàn đạo Phật, nhưng với bộ luật Hồng Đức đạo Phật đã bị hạn chế với nhiều quy định như: Chưa đủ 50 tuổi chưa được xuất gia, người trẻ tuổi chưa được ra chùa, … Vì thế chư vị tổ sư đã khéo léo phương tiện, để duy trì lớp tín đồ trẻ bằng cách, còn nhỏ thì bán khoán cho Đức ông, lớn làm con nhang của Mẫu, già thì làm vãi. Tuy nhiên, đó là sự nương tựa lẫn nhau của cả 2 thực thể tín ngưỡng, là sự cộng sinh, chứ không phải sự “kí sinh” một chiều. Bằng chứng là Phật giáo thật sự có chỗ đứng vững chắc trong xã hội Việt Nam: Chuyết Công Hòa Thượng được ban tặng Đông Đô Thủy Tổ; đám tang vua Lê được các học giả nước ngoài ghi lại thì chất Phật giáo rất đậm nét như việc cúng trai chư tăng, việc linh cữu vua từ Hoàng cung ra bến đò sông Hồng về Lăng cả đoạn đường dùng lụa tím để che, lụa này sau khi có tân quân phải đem hết cho sư may áo; ở mức độ hoàng gia là các bà chúa phát tâm tu hành thực sự chứ không phải là dạng tín chủ xây chùa hay bỏ tiền mua hậu … Hay ngay phái An Đông Nội đạo tràng cũng thờ Dược Sư làm tổ, … Hoàn cảnh lịch sử đã đưa Đạo Phật và tín ngưỡng tam tứ phủ và thờ Mẫu Việt Nam đến với nhau. Tuy nhiên đấy không phải là nguyên nhân quan trọng nhất. Dù không có trang lịch sử ấy, thì chắc chắn với cái tâm viên dung của dân tộc ta, chắc chắn hình dung tín ngưỡng cũng sẽ hòa kết lại như vậy
Tôn giáo là phần quan trọng của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Nó không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của giai cấp cầm quyền muốn nó tồn tại hay không tồn tại. Dù giai cấp cầm quyền có muốn xoá bỏ, thì một khi các tiền đề xuất hiện tôn giáo vẫn còn, thì tôn giáo vẫn tồn tại. Trong các triều Lê, Nguyễn, thời thuộc Pháp, thời kỳ Mỹ chiếm miềm Nam, dầu cố sức đến đâu, cuối cùng giai cấp cầm quyền, vẫn phải thoả hiệp với các tôn giáo, nhất là Phật giáo – tôn giáo có sức sống lâu bền trong lòng dân tộc.
Nếu như đã biết rằng: “nhân quả không chỉ riêng với người mà còn cả đạo nữa” vậy thì đã tu thì tu cho trọn kiếp, chớ tạo ra nhiệp chướng mà mang tội. Thực sự, các tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam đều hoà quyện, gắn bó mật thiết với nhau, cùng nhau vượt qua những thử thách, sóng gió của lịch sử, góp phần hình thành nên bộ mặt văn hoá dân tộc ngày hôm nay. Đạo nào cũng cao quý, nhưng cao quý nhất là đạo đức. Làm sao để thế nhân thấy những người có đạo là những người có đức, có công giữ gìn nền văn hoá dân tộc thống nhất mà đa dạng. Đó mới là việc đồng quan, lính Thánh cần làm.

0 Nhận xét