Advertisement

Tác giả cuốn sách "thờ cúng tổ tiên và Gia Thần - giải ảo... " và phái "Bàn thờ" đã sai lầm như thế nào?

Tác giả cuốn sách "thờ cúng tổ tiên và Gia Thần - giải ảo... " và phái "Bàn thờ" đã sai lầm như thế nào?

Dạo gần đây có nhiều người đã chịu khó nghiên cứu quy tắc thờ cúng của Nho giáo qua các kinh điển như Chu lễ, Gia lễ, Lễ kinh, Lễ ký, ... Từ đó chấn chỉnh lại một số sai sót, nhầm lẫn cũng như vạch ra một số sự bịa đặt lai căng của hậu thế gần đây trong thờ cúng. Họ còn dự định xuất bản sách để "giải ảo những sai lầm trong thờ cúng tổ tiên và gia Thần", làm tài liệu để mọi người tham khảo. Trên khía cạnh nào đó, đây cũng là một vài dấu hiệu đáng mừng cho phong trào cổ phong và công cuộc chấn hưng văn hóa nước nhà.  

Tuy nhiên, sau khi trình làng, nhất là khi các tác giả đem những vấn đề trong cuốn sách trên tung hê lên mạng xã hội, lại gặp phải nhiều sự phản đối khác nhau. Chúng tôi không hiểu sao một cuốn sách đề cập đến một nội dung cần thiết như vậy lại bị phản đối bởi chính những tay cộm cán trong làng cổ phong. Sau khi tiếp xúc thì mới vỡ lẽ. Tác giả không hề là một Nhà Nho đúng nghĩa, nếu không muốn nói là cá nhân có nhiều điểm cần lưu tâm về lập trường chính trị, quan điểm tôn giáo. Họ viết sách với thái độ rất thượng đẳng, thù địch. Những người nghiên cứu này có nhiều thiếu sót vô cùng chết người trong lập trường nhìn nhận vấn đề, trong cả thế giới quan, giá trị quan và phương pháp luận. Xin chỉ ra vài điểm như sau: 

1. Lẫn lộn, hay cố tình đánh tráo Nội hàm khái niệm trung tâm của cuốn sách: "nghi thức cổ truyền" hay "nghi thức Nho giáo"?

Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng của con người ra đời vào thời kì sơ sử, và tồn tại cho đến ngày nay. Nó không phải là tôn giáo và cũng ra đời trước khi tôn giáo ra đời. Tuy nhiên, theo thời gian, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng phát triển trong giai đoạn xã hội có giai cấp và các tôn giáo dần lớn mạnh. Các dần đóng vai trò tư tưởng chỉ đạo nhiều hoạt động của đời sống xã hội trong đó có hoạt động thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. 
Chỉ mới khái lược như vậy, chúng ta đã có thể rõ một điều là sẽ có rất nhiều loại "Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên" khác nhau:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên "nguyên thủy": là loại hình hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi bất kì hình thức tôn giáo nào và ... không tồn tại (đã thất truyền). Nay ta chỉ có thể nhìn ra nó, cùng lắm, là hình bóng đầy mờ ảo dưới dạng thức các tín ngưỡng khác
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã thông qua sự ảnh hưởng của một tôn giáo nào đó: ví dụ như Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo lễ nghi Chu lễ/ Nho giáo, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cộng đồng Phật tử, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cộng đồng Phật tử tu theo Tịnh độ, theo Mật giáo, theo Nam tông, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người theo Tam tứ phủ, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của thầy Tào thầy Then, của tín sĩ, đạo sĩ Đạo giáo, ...
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ảnh hưởng chồng chập nhiều văn hóa, lễ nghi, hệ thống quy tắc của các tôn giáo khác nhau: Ví dụ như hình thức thờ cúng gia tiên của một Phật tử có căn đồng, có chồng là phù thủy, anh chị em là sư, họ hàng lại theo về Đàn Thiện ... Hay việc thờ cúng tổ tiên của các tín đồ Bửu Sơn Kì Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Cao Đài, ... Tuy đây cũng được công nhận là các tôn giáo, nhưng trước hết đã hấp thu lễ nghi các tôn giáo ra đời trước, rồi bản thân lại sinh ra hệ thống quy tắc mới, nên ảnh hưởng qua lại rất phức tạp. Có thể nói, đây là loại khó khảo sát nhất
- Rồi bản thân các loại hình trên lại tiếp tục biến chuyển, vận động không ngừng:

+ Ảnh hưởng bởi văn hóa vùng miền (Bắc, Trung, Nam, Việt kiều, ...) trong quá trình di dân
+ Ảnh hưởng qua lại lẫn nhau
+ Trải qua thời gian bị mai một đi, hoặc phát triển thêm
+ Được diễn giải theo nội hàm khác, và thực hành theo chiều hướng khác (mà vẫn có ý nghĩa và giá trị văn hóa). Tiêu biểu cho xu hướng này là việc Phật hóa các nghi lễ dân gian của tín đồ Phật giáo, ...
+ Chưa kể đến các hình thức bị méo mó biến dạng do đứt gãy văn hóa, do diễn giải sai, do thương mại hóa vô lối, do lực lượng thầy bà mê tín dị đoan bày vẽ, ...

...

-> Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên biến hóa thành muôn dạng thức khác nhau khó mà thống kê ra được

Như vậy, trừ các loại hình do diễn giải sai, méo mó, ... (đã nêu ở trên) có thể khẳng định: có nhiều hình thức thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên khác nhau. Các hình thức ấy có cách giải thích riêng, có lối thực hành riêng, có hệ thống tổ chức sự lệ, bài trí thờ tự, ... không hề giống nhau. Tuy có nông sâu, cao thấp khác nhau, có bề dày lịch sử, trình độ lý luận hóa khác nhau, có ưu - nhược điểm, mọi thứ khác nhau, nhưng đều là từ-cổ-mà-truyền-lại, chứ không phải là thứ trời ơi đất hỡi từ đâu rơi xuống đất Việt Nam và được mọi người vơ đại về thờ. 
Trở lại với tác giả, loại hình Tín ngưỡng "thờ cúng tổ tiên và gia thần" của tác giả là loại hình nào? Đơn giản ta có thể thấy, đó hoàn toàn là loại gia lễ (Nho giáo) của Việt Nam (và cả Trung Quốc) từ sau thời Lê trở đi. Tóm lại, nó cũng chỉ là một trong vô số hình thức thờ cúng tổ tiên xuất hiện ở Việt Nam mà thôi! Tác giả không rõ là đã nhầm lẫn hay cố tình đánh tráo khái niệm "thờ cúng tổ tiên theo gia lễ", lập lờ thành "Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên" chung chung, nào là "cổ truyền", "Là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt", nào là "Tín ngưỡng này có thể bắt nguồn từ thời kỳ đồ đá mới", ... Và từ đó công kích tất cả những sự khác biệt trong phương pháp thờ cúng tổ tiên khác.
Pháp luật đã quy định rõ ràng quyền tự do về tôn giáo, tín ngưỡng, theo hoặc không theo. Ai cho phép tác giả cái quyền độc tôn chân lý về thờ cúng tổ tiên như vậy? 

Ví dụ như: Lối thờ một bát và không có cốt bát hương, coi bát hương chỉ là đồ thắp hương là lối của nhà Nho. Còn pháp sư, phù thủy, thống, tăng, đồng cốt đều dùng cốt bát hương. Vậy, ông lấy quyền gì để chê cách làm của người khác?

Trước những sự chế cháo thiếu hiểu biết, và hoàn toàn vì mục đích trục lợi của cánh con buôn đồ thờ, hay thầy rởm, bất cứ ai có văn hóa đều chướng tai gai mắt. Thế nhưng nhầm ta thành địch, cho rằng những ai khác ta đều thiếu học, đều là con buôn đồ thờ, con phe tâm linh thì đúng là một thứ tư duy dốt nát!

2. Không hiểu rõ cơ cấu tôn giáo - tín ngưỡng ở Việt Nam

Một sự thống nhất tư tưởng trong cuốn sách này đó là tuy có nhìn nhận nghi thức thờ cúng bị ảnh hưởng bởi các tôn giáo như Phật, Đạo, nhưng trong cuốn sách lại không công nhận hệ thống thờ cúng đã bị ảnh hưởng của các tôn giáo trên. Nếu có chấp nhận chỉ là chấp nhận những yếu tố nhỏ nhặt vụn vặt, còn cuốn sách cơ bản là trình bày lại hệ thống lễ bái tổ tiên theo gia lễ của Nho giáo. Thật khó hiểu tại sao một người sùng bái giáo phái nồi cơm điện lại có thể bị "hệ đạo" đối với lý luận đạo Nho như thế! Chính vì như thế, nên tác giả lại rơi vào sai lầm tiếp theo. Đó là không hiểu về cơ cấu, sự tương quan lực lượng, mức độ ảnh hưởng giữa các tôn giáo ở Việt Nam
Nho giáo tuy có tác động lớn đến cấu trúc nền văn hóa Việt nhưng chưa bao giờ thực sự làm chủ đời sống thờ cúng của người Việt. Phật giáo trên cả danh lẫn thực, trong nhiều giai đoạn lịch sử đã là quốc giáo của Việt Nam, ấy vậy mà nhiều khi quy tất cả các yếu tố tâm linh thờ cúng cho Phật giáo còn là thiếu sót. Chứ chưa kể Nho giáo đã suy tàn từ lâu, đến nay có còn môn đệ thuần nhất Nho giáo nào chăng? 
Nho gia Lê Bá Quát viết trong văn bia để ở chùa Thiện Phúc với những dòng sau đây, than phiền: "Ta thuở trẻ đọc sách, khảo xét xưa nay cũng biết rõ ít nhiều về đạo của thánh nhân, dùng để giáo hóa người ta mà rốt cuộc chưa có thể gây được đức tin trong một làng. Từng dạo khắp núi sông, dấu chân đi hàng nửa thiên hạ, mà tìm nhà học và văn miếu chưa từng thấy ở đâu có. Do đấy ta rất lấy làm xấu hổ với tín đồ nhà Phật." (Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư). Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng đã từng phát biểu ý kiến trong Viên Âm số 3 ra ngày 1.2.1934, ông nói  nhìn Phật giáo phục hưng mà ông buồn cho Nho giáo: trải qua bao cuộc bể dâu Phật giáo vẫn còn nguyên vẹn mà bây giờ lại được chấn hưng, trong khi đó Nho giáo đã suy sụp mà khắp nước lạnh tanh, không có ai nghĩ đến chuyện chấn hưng Nho học.
Chính vì hai nguyên nhân trên (Nho giáo không phải là tôn giáo độc tôn ở Việt Nam và Nho giáo đã dần dần suy tàn khiến các tín ngưỡng khác lần lượt thay thế một số vị trí mà Nho giáo đã xác lập trong việc thờ cúng), mà trong lịch sử tín ngưỡng thờ cúng nước ta đã sinh ra những quy tắc thờ cúng "không chuẩn mà lại rất chuẩn" (không lấy quy tắc thờ cúng Nho giáo làm hệ quy chiếu) 
Thêm nữa, về cơ cấu tín ngưỡng tâm linh trong gia đình: theo luân lý phong kiến, đạo đức Nho giáo thì đàn ông giữ vai trò là chủ nhà, chủ lễ, phụ nữ có vai trò rất hạn chế. Đình là nơi của các ông, chùa là nơi của các bà. Tuy nhiên, do Nho giáo suy vi, đàn ông theo Tây học, dẫn đến sinh hoạt ở đình, vai trò chủ lễ của đàn ông mất đi ảnh hưởng thuở trước. Ngược lại các bà thì vẫn chăm đi chùa, tụng kinh ăn chay, và dần dà trở thành người đóng vai trò lớn hơn trong cơ cấu tâm linh của gia đình lúc nào không hay. Đây là tiền đề để xuất hiện việc thờ Phật, thờ bát hương tại gia, lập cây Hương Phụng chân hương lấy từ phủ Dầy, đền Đồng Bằng, để phụng sự hay cầu tự ... xuất hiện ngày càng nhiều và phổ biến trong gia đình
Ngày nay xã hội đang bước vào thời kỳ hiện đại, bước vào xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp, các yếu tố văn hóa truyền thống lâu đời dần bị mai một. Tuy nhiên, những không gian văn hóa như chùa (với người trụ trì là tăng ni), điện, phủ, tĩnh (của thanh đồng, pháp sư phù thủy), ... Lại là một nơi lưu giữ rất tốt những giá trị văn hóa cổ truyền. Ở đó ta vẫn thấy mọi người ăn trầu, phơi cau, uống trà, ăn chuối lá, viết thư pháp, tế lễ, cúng cấp, chữa bệnh bằng lá cây, chữa mẹo tâm linh, ... Ta vẫn thoáng thấy như hình bóng thời gian của thời xa vắng vẫn còn nguyên vẹn nơi đây. Nhưng những giá trị văn hóa lưu lại ở đó lại không phải là giá trị văn hóa Nho giáo thuần túy. Rồi từ những "trung tâm văn hóa" đó, những gì còn sót lại của văn hóa cổ lại lan tỏa ra và sống lại một lần nữa. Chính vì vậy, trong xã hội hiện đại đôi khi người ta kế tục văn hóa cổ truyền theo đường Truyền thừa thiếu vắng sự có mặt của Nho giáo này. Do đó, họ chưa quan tâm đến lý luận và các phương pháp thực hành thuần Nho giáo và đương nhiên hoằng dương các hình thức thờ cúng "cổ truyền", nhưng ngoài Nho chế
Điều đó càng làm cho sự độc tôn lý thuyết thờ cúng tổ tiên Nho giáo của tác giả trở nên kệch cỡm trong xã hội Việt Nam. Điều tác giả nên làm là giới thiệu cái hay cái đẹp của hệ thống hành trì Nho giáo để từ đó Hoằng Dương những giá trị của hệ thống mình. Điều đó tốt hơn nhiều với việc cà khịa, chê bai, bóc phốt các hình thức thờ cúng khác trong khi hoàn toàn không hiểu và không phải là người thực hành những nghi thức đó
Xin phân tích một ví dụ để chứng minh cái sai của tác giả do không hiểu rõ cơ cấu và ảnh hưởng tôn giáo ở Việt Nam

Về vấn đề: Tình trạng giằng co về quyền lợi thờ trời dưới chế độ Phong kiến

Nhà ngâm cứu cùng các đồng sự đồng loạt be lên: "Hoàng thiên và Hậu thổ không phải ai cũng có thể cúng lễ", "Thành hoàng chưa bao giờ là thần linh tại gia" (nên không phải khấn), ... Trong khi đó, nếu chiếu theo sớ văn, khoa nghi, lễ bái Phật giáo, Đạo lưu, Tứ phủ, Tam giáo nói chung thì việc thờ, khấn, thỉnh, ... các vị kia trong thờ cúng, hiến, sám, kì siêu tiến bạt tổ tiên lại vô cùng ... bình thường.

Tác giả không chấp nhận thì cũng phải chấp nhận, rằng đó là kết quả của sự đấu tranh đã ngã ngũ của các thế lực tôn giáo dưới chế độ phong kiến

Chi tiết:

Vốn từ thượng cổ, tín ngưỡng Trung Quốc tương đối đa dạng, nhân dân tự do tế lễ trời. Từ trước thời Tây Hán (206 - 9 TCN) đã có những lưu truyền về các đền miếu tế tự các tinh tú tại đất Ung Châu. Trong Sử Ký - Phong Thiền Thư chép: “Đất Ung có hơn trăm miếu thờ Nhật, Nguyệt, Sâm, Thần, Nam Bắc Đẩu, Huỳnh Hoặc, Thái Bạch, Tuế Tinh, Nhị thập bát tú...”. Không chỉ dừng lại ở đó, dưới chế độ dân chủ nguyên thủy và dân chủ chủ nô, trong điều kiện đấu tranh với hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, có cả những trường hợp người dân còn trách móc cả ông trời nữa - xem Thi kinh. 

Kể từ khi Nho giáo được độc tôn, tình hình đó đổi khác hẳn. Nho giáo quan niệm: chỉ vua được tế giời, chư hầu tế thần phương mình, các nhà chỉ được tế tổ tông. Từ đó dẫn đến sự giằng co về quyền thờ cúng lễ trời, thần linh giữa giới quý tộc, vua quan và quần chúng nhân dân. Vua tự cho mình mới có tư cách tế trời, còn dân chúng với nhu cầu tâm linh đa dạng không chấp nhận ràng buộc đó, và, sản sinh ra nhiều hình thức cúng bái đối với "ông trời"

Ở Việt Nam cũng diễn ra thực trạng này. Sách Vũ trung tuỳ bút 雨中隨筆, Phạm Đình Hổ có kể câu truyện: vào thời Lê Trung Hưng, ôn dịch lưu hành, các gia đình thường lập đàn Kỳ đảo, nhương thiên thời, Trừ ôn. Ông đi ngang qua đường thấy nhà dân thiết Tiếu đàn, trên để trống một chỗ phụng Phật, dưới đó lấy giấy vàng làm một vị đội mũ Cổn, mặc áo Miện phụng đức Đế Thích, dưới lại bầy ra mấy vị Cổn Miện xanh vàng bảo đó là đức Thiên Đế, Địa Kỳ,… rồi la liệt Chân tể các vị. Chiêu Hổ Tiên sinh dưới con mắt của nhà Nho mới nhận xét: "Thượng đế đã là chí tôn vô cực lại còn có ông to hơn cả Thượng đế khác chi ngoài trời lại có trời, trên Đế có thêm Đế. Thực là dị đoan, hoang đường, tà thuyết". Thực tế Phạm Đình Hổ là nho sĩ thời mạt, ông cũng đã có những nghi ngờ, ít nhất là nghi ngờ chế độ phong kiến đương thời. Thế nhưng, trên bình diện lễ bái ông vẫn mang nặng tính độc quyền trong tế tự của Nho giáo. Miệt thị như vậy thôi, chứ ông cũng chẳng thay đổi được thực tế là: Nho giáo quy định thì là việc của Nho giáo, quy định đó được tuân thủ trong tế tự quốc gia. Còn thực tế thì dân chúng, tăng ni đạo sĩ, vẫn trai tiếu, lễ bái trời, và các vị thần trên trời mà không thể chế nào can thiệp được. Cần kíp họ vẫn lễ đảo kỳ thiên Đế thích, Lễ Thiên đế giáng sinh, Lễ Thiên đế bảo đồng hộ thai, Triều lễ chư thần, cúng tứ phủ Thánh đế ... (Cụ thể là các khoa cúng trong Tạp tiếu). Lý do: thế giới quan của hai bên không giống nhau. Thế giới quan của nho giáo với phần hình nhi thượng học khá nghèo nàn, và để củng cố vị thế của chính quyền chuyên chế Trung ương tập quyền thì chỉ chấp nhận Có một ông trời mà thôi, ông trời ấy chỉ trao Thiên mệnh cho một người mà thôi. Còn với Đạo giáo và Phật giáo thì thế giới quan vô cùng phong phú với 36 tầng trời mỗi tầng trời lại có các vị thiên đế khác nhau, ...

Cho đến tận năm Gia Long năm thứ 3 (1804) nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, vẫn phải có nhiều động thái can thiệp vào việc tín ngưỡng trong dân gian, để củng cố lại quyền lực phong kiến về cả Vương quyền lẫn Thần Quyền. Tiếng là “Khai hóa cho dân, làm nên tục tốt,... Sửa lại những thái quá cho được trung bình, làm định lệ chốn hương thôn, muốn bỏ hết mối tệ, cùng noi đến đạo cả vậy”, nhưng thực ra bản chất của chúng là những quy định tiền đề để độc tôn Nho giáo sau một thời gian dài Nho đài hoang phế, chứ không phải thực sự là “các vua triều Nguyễn đều quan tâm tới sinh hoạt tôn giáo trong dân chúng” như nhiều người lầm tưởng. Việc cấm “Con gái, đàn bà đến chùa quán, miếu thờ thần thắp hương khấn vái.” Cũng chẳng khác việc thời Lê cấm đàn bà dưới 50 tuổi lên chùa, đàn ông dưới 50 đi tu để hạn chế Phật giáo vậy. Các việc thực hành tín ngưỡng có trong giáo điển Phật - Đạo như “đốt bảy ngọn đèn” hay việc “đốt hương ban đêm, thả đèn trời” bị coi là hành vi "khinh nhờn thần linh" cho thấy triều đình độc tôn tư tưởng Nho gia sâu sắc. 

Quay lại với thực tế hiện tại, sau nhiều năm Nho giáo hoang phế không có ai phục hưng, đã có một số cá nhân có bỏ công bỏ sức ra tìm hiểu lại sách vở Nho giáo. Tuy nhiên do trình độ Hán Văn hạn chế, sức đọc hiểu chưa có, nên họ tiếp cận hơi máy móc. Ví dụ như: chỉ căn cứ vào một vài tài liệu thứ cấp, mà họ cho rằng chỉ có miếu, đình, ... Được Lễ Giao thừa mà thôi còn tư nhân làm là "tiếm lễ". Họ giải thích sự "tiếm lễ" này chỉ mới bắt đầu độ khoảng vài chục năm gần đây bởi tầng lớp thị dân mà thôi!

Có một số vấn đề chúng ta cần giải quyết ở đây: 

Thứ nhất, như trên đã trình bày, Nho giáo không phải là tôn giáo duy nhất quy định đời sống tín ngưỡng tôn giáo của người Việt 

Thứ hai, những quy định của Nho giáo cũng được thực hiện khá hạn chế, đối với tầng lớp dân chúng đông đảo chưa chắc đã có ảnh hưởng. 

Thứ ba, kể cả khi những quy định của nho giáo đã được thực thi, thì cũng chỉ được thực hiện trong một số phạm vi hạn chế (nhà nước độc quyền tế nam giao, tế xã tắc, ... Nhưng nhân dân vẫn tự do lễ Kỳ Thiên Đế Thích, lễ đảo thiên thời, lễ Nhương tinh, lễ Thiên địa khoa, lễ đương niên đương cảnh, ...). Như vậy, sự "tiếm lễ" mà tác giả muốn nói đến, là do tác giả thiếu hiểu biết mà thôi! Việc tế trừ tịch, tế giao thừa, là việc của đền miếu, đình đài, không phải là việc của tư gia - điều này đúng. Tuy nhiên việc cúng Giao thừa thì lại là việc của tư gia, tư gia vẫn bày Lễ Giao thừa tiễn hành khiển năm cũ đón hành khiển năm mới, cũng khoa nghinh tân tống cựu, lễ đương niên đương cảnh, ...

Thứ tư, trong nền dân chủ hiện tại, mọi tín ngưỡng tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thế tục, không duy trì quyền lực trong các tôn giáo, ... Vì vậy, Nho giáo không còn có thể áp đặt các quy định của mình lên toàn thể xã hội. Việc áp đặt "Tiếm lễ" lên cách thực hành tín ngưỡng của người khác là một suy nghĩ hết sức lố lăng, thậm chí lạc hậu và tụt hậu.

Vì vậy, để phát huy nét đẹp của tất cả các tôn giáo, các hệ tư tưởng, thiết nghĩ nên duy trì quy chế, những quy định, những thiết chế của các tôn giáo trong phạm vi phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Áp dụng những kết quả nghiên cứu phải biết tôn trọng hiện trạng tín ngưỡng tôn giáo nước nhà.


3. Nhìn nhận sự vật vừa siêu hình vừa chết cứng

2 nguyên lý cơ bản mà bất kỳ nhà nghiên cứu nào cũng phải luôn nắm vững để nghiên cứu bất kỳ sự vật hiện tượng gì một cách khoa học đó là nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.  Theo Lênin: “Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động…trong sự biến đổi của nó”. Văn hóa cũng vậy, mỗi thực thể văn hóa đều ra đời, phát triển, tương tác lẫn nhau, trải qua quá trình lịch sử lâu dài mới có bộ mặt ngày nay. Bản thân Nho giáo mà tác giả cuốn sách kia đang thực hành cũng ra đời khá muộn. Nhiều nghi tiết như: giỗ, tang ma, ... nó còn khác xa những gì được ghi trong Lễ ký. 

Thử hỏi tác giả và còn có ai trong cuộc sống hiện tại làm lễ giỗ tổ tiên bằng cách mời một người họ hàng đóng giả làm người thân, thụ hưởng lễ vật ăn uống, rồi con cháu ngồi bên ngoài nghe tiếng sột soạt, ... ??? Chắc chắn là không. Như vậy chính bản thân nho giáo cũng đã thay đổi hình thức thờ cúng của mình!

Và, ở mặt khác, bản thân Nho giáo cũng hấp thụ nhiều yếu tố ngoài Trung Quốc (như đốt hương - Nguyên Bản Trung Quốc đốt củi và tưới mỡ, đốt lông con sinh để tế), hay yếu tố ngoài Nho giáo (vàng mã - vàng mã trong Nho giáo vốn là vật bồi táng chứ không hóa, và cũng bị Khổng - Mạnh phản đối). Nho giáo Trung Quốc cũng không hề dùng trầu cau để cúng tế, trong khi đó ở Việt Nam đó lại là vật không thể thiếu.

Vậy, tại sao, trong quá trình phát triển, các yếu tố lễ nghi Nho giáo (hoặc Nho giáo đồng sử dụng) lại nhất định phải chết cứng, không được di dịch thay đổi??? Chỉ có vài giải thích thôi:

Một là kinh viện chủ nghĩa, không cần thay đổi
Hai là thiếu bản lĩnh, không dám thay đổi
Ba là thiếu trình độ, không biết thay đổi thế nào?
Bốn là máy móc, không dám chấp nhận sự thay đổi, sự khác biệt, là tự cao, ngã mạn, cho mình là nhất, độc tôn chân lý, ai khác với ta đều là sai trái

Như thế thì có xứng làm người nghiên cứu văn hóa hay không???

Xin ví dụ cụ thể vài trường hợp như sau, để độc giả thấy rõ sự máy móc của nhóm tác giả:

Thứ nhất: về trường hợp chức năng của bát hương, và vấn đề trong nhà thờ mấy bát hương, ban thờ chính của căn nhà có thờ ai ngoài gia tiên không?

Tác giả cuốn sách này, triệt để cho rằng: bát hương chỉ có chức năng là đốt hương nén, thay thế cho lư hương, vì vậy, chỉ cần 1 bát hương và trong bát hương không cần có cốt bát hương. Theo tác giả: "sớm nhất còn có sách Gia lễ Tiệp Kính, in năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707) chép rõ, Lư hương đốt Hương bột, mỗi lần làm tế lễ mới lại "phần hương" (đốt bột hương) và bê Lư hương đặt lên Hương Án. Vậy thì lấy gì làm cốt với tạp nham chi khươn? ... Vả lại, thờ ai thì ghi dị hiệu vào Bát Hương, vậy một gia đình sẽ thờ bao nhiêu người đã khuất, sẽ là bấy nhiêu Bát Hương?"

Họ cho rằng: "Kính thì phải Sơ", phải xa lạ, xa cách, kính nhi viễn chi với thần linh, không thể thờ thổ địa trong nhà được (phải thờ ở miếu), muốn lễ Phật phải đội lễ lên chùa, không thể lễ ở nhà, họ còn sợ "quỷ ma cướp cơm các cụ" (không rõ họ nói quỷ ma là ai? là ông "phúc đức chính thần" hay ông "nhất gia chi chủ", hay là ông Bụt????)






Xin bàn như sau: 

Đầu tiên tôi xin được hỏi chư vị, thứ gì là quan trọng nhất, cái gì có công năng tạo sự thiêng liêng cho ban thờ? Chắc chắn đó là bát/ lô hương! Vì sao? Vì hương gắn liền với thờ cúng, tế tự, ... Nếu một cái bàn trên đó bày đầy hoa quả bánh kẹo, nhẫn đến có bày chật kín giá gương, ngai ỷ, ảnh chân dung, nậm lọ, lục bình, ... thì người ta vẫn chỉ coi đó là một chiếc tủ chè, tủ ly, kệ trang trí mà thôi! Phải có tí hương khói vào, thì đó mới là không gian "thiêng"! 

Phân tích thêm về tâm lý và thực trạng "trọng bát hương" trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam:

      "Từ là dụng cụ để đốt hương thời cổ đại, lư hương/bát hương đi vào thế giới tâm linh một cách tự nhiên và cần thiết. Đối với người Việt, bát hương trở thành vật thiêng thành trung tâm của sự thờ cúng, mọi sự bày biện trên ban thờ đều trông vào bát hương, lấy bát hương làm "gốc toạ độ". Đã gọi là ban thờ thì nhất thiết phải có bát hương, mọi thứ khác có thể thiếu, kể cả bài vị long ngai, thần chủ ảnh thờ nhưng bát hương thì không, khi người ta lập ban thờ thì đầu tiên là phải "bốc bát hương". Bát hương thờ ai thì ghi húy hiệu vào tờ giấy để dưới đáy bát, cũng chả ai có thể đặt để Thần Phật, Tổ Tiên phải ngự ở nơi nào mình chọn, và cũng chả ai biết những vị khuất mặt ưng giáng nơi đâu, nên nói rằng họ không ngự chỗ này mà ngự chỗ kia cũng chỉ do người trần mắt thịt tự nghĩ mà bịa ra như vậy.

     Thật chẳng khó để tìm thấy những ban thờ chỉ có mỗi cái bát hương, thậm chí cả ngôi đền, cả ngôi chùa, cả ngôi từ đường cũng chỉ có mỗi bát hương là đủ; không có đồ thờ nào khác, có nơi còn chả có cả tượng Phật, tượng Thần Thánh thế mà người tin vào việc tâm linh vẫn cứ tất cầu tất ứng!

    Trọng bát hương là vậy, người Việt dần coi bát hương là đại diện cho tổ tiên, đón nhận sự ứng báo của thần thánh, gửi gắm nguyện cầu lên Trời Phật. Thế nên, cái bát hương ngày càng được tạo tác kỹ lưỡng, sự trọng kính càng được chỉn chu. Lau chùi thì bằng nước thơm khăn sạch, di chuyển thì cung kính thỉnh cầu, lúc để trên đầu, lúc khiêng trên kiệu. Thấy bát hương là thấy Thật Thánh, Tổ Tiên giáng ngự chốn giường cao!

      Ngoài thần vị thì bát hương, đỉnh trầm thường hay khắc chữ để ám chỉ đến những vị được thờ phụng. Cái thì khắc "Thượng đẳng tối linh", cái thì viết "Thánh cung vạn tuế", cái thì đề "Thượng đẳng đại vương" đâu phải là bát hương vạn tuế hay đỉnh đồng tối linh mà chính là những vị được cái bát hương đó thờ phụng. Lại có những bát hương ghi lời cầu chúc "Phúc thọ an khang", cũng có những bát hương ghi tên đền miếu, chùa chiền, ghi tên người công đức, ghi tên làng xã phụng sự... Điều đó càng chứng tỏ từ xưa bát hương đã được chuyển biến thành vật linh, sự thiêng liên kết giữa phàm trần với Tiên Thánh, giữa con cháu với các bậc Tổ Tiên!" 


Chính vì thế, mà lịch sử thờ cúng diễn tiến theo một đoạn như sau:

Phải nói rằng, Ngay cả trong những thời đại phong kiến huy hoàng như Lý, Trần, Lê, cũng không phải ai cũng có điều kiện lập không gian thờ cúng tại gia đủ tiêu chuẩn Chu lễ (lễ bất cập thứ dân). Suốt từ thời cuối Lê cho đến thời Nguyễn, trải qua cả thời kỳ Pháp thuộc, kéo dài suốt những năm kháng chiến tranh giải phóng, thời kỳ bao cấp, bị bao vây cấm vận ... kinh tế suy vi. Nhất là thời Nguyễn, thành Thăng Long còn càng tàn tạ hơn nữa, đời sống nhân dân Bắc Thành không còn như xưa. Ngay cả trong tầng lớp sĩ phu cũng không phải nhà nào cũng đủ điều kiện để lập ra những bàn thờ 3 lớp như vậy. Chính vì vậy những lối thờ một lớp ra đời. Và vì chỉ có một lớp thờ tự, nên các đồ thờ tự, tế khí, ... Bị dồn dịch, bị bớt đi, hoặc thay đổi chức năng. Bát hương với vai trò nhen lên mùi hương cúng dàng Trời, Phật, tổ tiên, nhen lên ngọn lửa tâm linh kết nối âm dương, dần dần trở thành trung tâm của bàn thờ. Và do đó, dần dần hương án đóng luôn vai trò của ngự án, và được mọi người quan niệm là "thần ngự" trong bát hương. Bát hương nghiễm nhiên được để trong cùng chứ không phải ngoài cùng như một vật phụ để đốt hương trong tế lễ. Trong tín ngưỡng dân gian, người ta bốc bát hương để thờ Phật, thờ mẫu, thờ thần linh, thờ thần bản mệnh,... Khi di chuyển, thay đổi bàn thờ, nơi ở, ... Thì bát hương luôn được giữ lại, gìn giữ cẩn thận chứ không thay một cách bừa bãi. Trong khi giặc dã, thiên tai địch họa thì bát hương luôn được người ta di chuyển đầu tiên. Lúc này bát hương đã thoát thai khỏi quan niệm là vật để đốt Hương ban đầu, trở thành một vật Linh thực thụ. Để phục vụ nhu cầu Linh hóa bát hương đó, các huyền thuật của Phật giáo và Đạo giáo liên quan đến "cốt bát hương" ra đời. Và đương nhiên, thể thức của cốt bát hương cũng dần dần được thể chế hóa, có Văn Phong, ấn chú quyết, nghi lễ hành trì xác định, chứ không phải chỉ là một việc làm tùy tiện.

Cũng với lý do điều kiện kinh tế, điều kiện thờ cúng, nên dần dà sinh ra việc thờ ghép thần linh vào với gia tiên, tạo thành Bộ Ngũ tự gia Thần chung trong một ban thờ. Cũng vẫn với ảnh hưởng của điều kiện xã hội, dưới ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, của tín ngưỡng thờ mẫu, và lối thờ nhiều bát hương ra đời trước đó, nên hệ quả tất yếu là ra đời nhiều bát hương (Vì bát hương là thay cho thần vị, mà trong cùng một ban thờ lại phối thờ nhiều vị khác nhau). 

Tiếp đó với sự ảnh hưởng sâu rộng phong trào Chấn Hưng Phật giáo từ cuối Lê cho đến thời những năm 1930 (và còn có thể từ trước đó lâu hơn nữa), tín ngưỡng Phật giáo dần ảnh hưởng và thâm nhập vào cả trong ban thờ gia tiên đối với các gia đình Phật tử mộ đạo. Họ thờ trên là Phật dưới là thần linh, gia tiên, ... theo quan niệm của thứ tự trong pháp giới, lục đạo, tứ ân tam hữu ... Hoặc họ cũng có thể thờ kiểu hoặc tiền Phật hậu linh (Chủ yếu là miền Trung), hoặc lập ban thờ Phật bên cạnh và cao hơn ban thờ gia tiên như ở miền Nam.. 

Nhiều người cứ khẳng định "đời các cụ nhà tôi thờ chỉ một bát hương", "ban thờ trong nhà chỉ để thờ tổ tiên" và coi đó là "lối cổ". Nhưng không thiếu những ngôi nhà cổ từ hàng trăm năm trước nhưng các cụ đã thờ ba bát hương rồi! (Một điểm đáng chú ý cần điền dã đề xác minh thêm)

Cái sai của tác giả là quá chấp nhất vào sự lí giải ý nghĩa tự khí của Nho giáo, mà quên đi sự phát triển, vận động, thay đổi của sự vật hiện tượng!

Thứ hai: về tính chất cá nhân và tập thể của tự khí thần chủ, bài vị.

Trong cuốn  "giải ảo", họ viết như sau:

Thần chủ

* Quan niệm sai:

- Thần chủ có thể thờ chung cho nhiều tổ tiên hoặc đặt tại các nơi vọng thờ.

* Thực tế:

- Thần chủ là tự khí đại diện cho một linh hồn cụ thể, được đặt tại nơi thờ chính.

- Việc thờ chung thần chủ hoặc bài vị không phù hợp với nguyên tắc "mỗi vị tổ tiên có tự khí riêng, và được tế lễ xác định duy nhất".

* Hệ quả:

- Làm mờ ý nghĩa cá nhân hóa trong tín ngưỡng, gây nhầm lẫn về đối tượng được thờ. 🙂

Thực tế là: anh Tàu vẫn thờ ghép bình thường. Đơn giản vì tác giả có lẽ chưa tách bạch được bài vị và thần chủ. Thần chủ thì làm khi mới mất nên làm cho cá nhân. Nhưng về sau, gia chủ bỏ thần chủ, thay bằng bài vị (quy định ít chặt chẽ hơn thần chủ) để thờ được nhiều đời không phải thay, xóa, hay hợp nhất phối thờ cả 2 vợ chồng sau khi đã mất để đỡ rắc rối khi giỗ chạp. Bài vị "Mỗ môn đường thượng lịch đại gia tiên ..." của miền Bắc, hay "Cửu/ Cao huyền thất tổ" của miền Nam cũng là một dạng "bài vị/ tự khí tập thể" được sử dụng lâu đời.

Kết luận là gì? Mọi lý thuyết chỉ là màu xám và cây đời mãi mãi tươi xanh - Tác giả đọc, đi, thấy chưa đủ nhiều, nghĩ chưa đủ sâu nhưng lại phán như ... biết rồi!

Cách phản biện 1 mệnh đề đơn giản nhất là lấy ví dụ. Chỉ cần có ví dụ đi ngược lại mệnh đề mình đang nêu, thì cũng nên xem xét lại việc khái quát mệnh đề đó, có thể thu hẹp đối tượng hay thay đổi mệnh đề, ... Đó là phụ thuộc vào việc tái khảo cứu của tác giả. Nhưng khi nhận được phản hồi, tác giả lại coi đó là ... cá biệt, không đáng chú ý!?! Phương pháp luận như thế thì quả là "chí" khôn của ta đây!


Và, cay đắng làm sao, chính members trong ổ nhóm "bàn thờ" của ả lại share mấy mẫu "thần chủ tập thể" để mọi người tham khảo mới đau! :v



Đối với trường hợp khám thờ cũng vậy. Khám thờ nguyên bản là nơi để cất chứa thần chủ. Về sau khi có tượng thờ, các tượng đặc biệt là tượng nữ, tượng vua cũng được đưa vào thờ trong khám. Tuy nhiên, về sau do quá cồng kềnh, và lối thờ thần chủ không còn phổ biến nữa, nên chiếc khám dần trở thành biểu tượng. Bên trong khám không còn có thần chủ, nên người ta thu nhỏ chiếc khám lại và kết hợp với giá gương, tạo thành chiếc giá gương có bộ cánh mini như một chiếc khám. Chiếc khám đó mở ra bên trong có thể là một hình cây tùng (kết hợp với giá gương), hoặc mở ra bên trong là dòng chữ "lịch đại tổ tiên ..." (Kết hợp với bài vị). Lối khám này cũng rất phổ biến ở Nhật Bản - nơi không gian thờ cúng thường nhỏ hẹp và bé. Họ có những bài vị mở cánh cửa ra được như chiếc khám. Mục đích của việc kiến tạo các tự khí theo lối kết hợp này hoàn toàn dễ hiểu: Không gian thờ tự bị giới hạn diện tích nhưng vẫn muốn tạo thêm phần khí thế trang trọng đủ đầy. Nó cũng giống việc thay vì tạo tượng thờ tốn diện tích bày đồ nên làm một tranh phù điêu (tranh nổi, nhìn mặt trước vào vẫn có cảm giác như bày tượng, giống như tượng phù điêu ở Tam bảo chùa Bà đá). Tư duy này có từ thời Minh Mạt và Thanh Sơ tương đương Hậu Lê tới Nguyễn của mình. Trong Tam Hy Đường của Càn Long cũng ưa dùng motype này



Thế nhưng ảnh nhất quyết không chịu công nhận sự tồn tại của chúng, và công kích những người làm ra và mua những đồ vật ấy về thờ là những ... kẻ ngu dốt, trong khi thâm niên chép đồ cổ của họ có khi còn hơn cả thâm niên viết sách của anh (!). Lý luận của anh là khám là nơi để thần chủ, làm 1 cái khám tượng trưng như vậy là không có tác dụng thờ cúng; hoặc giá gương không để trong khám nên không thể kết hợp với khám được (!). Thực tế giá gương cũng là sản phẩm chế từ bài vị và thần chủ mà ra. Ngoài ghi tên thì còn có khi kết hợp thêm viết ngày giỗ, ... Hoặc có giá gương không viết gì cả. Chính ra, giá gương cũng là một dạng "bài vị tập thể". Khi khám mini không viết gì bên trong thì có tác dụng không khác chiếc giá gương để trống, khi viết chữ thì như là kết hợp với hệ thống thần chủ, ... (hoàn toàn có thể lí giải và chấp nhận được)



4. Sai lầm trong phương pháp thực tế, phương pháp khảo cứu để kết luận một vấn đề 

Qua việc theo luận với tác giả, tôi vô cùng ngạc nhiên, tại sao một nhóm nghiên cứu có phương pháp luận sai lầm, thiếu sót như vậy mà khi đưa ra bất cứ kết luận nào cũng vô cùng hùng hồn và chắc ăn? Một là không biết, hai là cố tình giả vờ như không biết mà thôi!

Để khẳng định luận điểm: "việc đưa câu Nam Mô A Di Đà Phật vào một bài cúng mới được phổ biến trong thời gian gần đây", tác giả đưa ra phương pháp là ... điền dã, thu thập tài liệu. Tác giả thách đố: "chúng tôi chưa thấy một bản văn cúng giỗ nào bắt đầu bằng Nam Mô A Di Đà Phật trước 197x. Bác nào thấy, cho tôi xin ảnh chụp" (?)


Như ta đã biết, văn khấn có yếu tố "Nam mô A di đà Phật" thuộc về loại hình thờ cúng tổ tiên của Phật tử. Nó mang tính dân dã, truyền miệng chứ không phải văn bản, pháp chế, chế độ, tự điển, lễ chế, gia pháp, ... mang tính quan phương! Vì vậy, đòi tìm "văn cúng giỗ nào bắt đầu bằng Nam Mô A Di Đà Phật" là phương pháp đi tìm lông con rùa và sừng con thỏ (thuật ngữ Phật học chỉ những thứ không tồn tại). Lật ngược lại, nếu đòi hỏi, nghiên cứu gia lễ bằng phương pháp thu thập kiểu văn bản văn học dân gian, bắt tách rời các văn bản chữ Hán như Thọ Mai, Hội điển, ... thì gần như cũng chẳng còn là mấy. Vì nghi thức tế lễ dài dòng khó thuộc, trước khi lễ lại phải ôn lại, chứ không nằm lòng như văn khấn của các già các vãi, hay cô cậu đồng. Chỉ vài chục năm không thực hành, nhiều làng ngày nay đã không còn lưu lại được nghi thức tế thánh tại đình làng nữa!
Lại nữa: Trong khi bàn về CÔNG DỤNG CỦA HƯƠNG TRONG PHẬT GIÁO tác giả khăng khăng, nó chỉ có công dụng vật phẩm cúng dàng. Như đã phân tích, trước hết tác giả sai do không biết đọc chữ Hán, chỉ nghe theo 1 bản dịch ý mà đã vội kết luận. Chưa hết, khi bị phản bác bằng kinh điển Phật giáo, tác giả cho rằng người khác bị tôn giáo nhồi sọ, chỉ biết tin vào kinh mà không chịu nghiên cứu bên ngoài (!). Y chống chế: "Có một dòng quan điểm rằng thờ cúng tín ngưỡng tôn giáo là thứ đã biết là đủ rồi, cứ thấy cái gì mới, cái gì chưa quen là gạt phắt. Trong khi đó, từ những khái niệm sơ giản nhất cũng không biết. Ví dụ, bàn về thờ cúng, gần như các tôn giáo, tín ngưỡng đều có sự hiện diện của hương. Tuy nhiên, để khái niệm rõ hương là gì? dùng để là gì thì có sự khác biệt rất lớn. Nên nhớ, hương đã được dùng cách nay 10.000 năm, có trước rất lâu thời điểm ra đời của đạo Phật, Lão, Nho. Cho nên lấy cái biết của truyền miệng của các tôn giáo mà nói về hương là thầy bói sờ voi" (Trong khi y đang bàn luận về CÔNG DỤNG CỦA HƯƠNG TRONG PHẬT GIÁO). Bàn về quan niệm của nhà ông A, nhưng nói theo kinh sách của nhà ông A thì lại bị gọi là "bị nhồi sọ", và phải nói bằng tài liệu của nhà ông B, ông C thì mới khách quan! Kỳ đời! Thánh bố tiên sư!
Cũng như vậy, tác giả lại lấy nguyên tắc hiến thực của Nho gia để ... chê kiểu hiến thực của Phật giáo. Họ cho rằng, tổ tiên hưởng "khí" của đồ cúng. Nên nhà mình cúng ít thì chỉ mời tổ tiên nhà mình ăn được thôi, còn mời cả Phật qua câu niệm "Nam mô ..." ở đầu thì Phật về ... ăn hết của ông nội bà ngoại mẹ cha nhà người cúng (?!). Trong khi đó, quan niệm nhà Phật đâu có cho rằng Phật, hay thậm chí các vong linh ăn uống trực tiếp từ những đồ cúng đó? Mà để phả thí lục đạo, phải lấy sức thần lực của Phật, biến thực, biến thủy ra hằng hà sa số, và đủ để cúng dàng khắp thượng không trung lục hạ thủy thánh phàm đủ hết!

Phân tích thêm:
Tại sao văn khấn/sớ của Phật giáo cúng gia tiên lại vẫn ... khấn Phật? - nhìn từ góc độ khoa nghi, sớ văn của Phật giáo
- Trong lễ, nếu bên Nho dùng "chúc văn" thì bên Phật chủ yếu dùng "sớ, điệp", bên Nho dùng "tế", thì bên Phật dùng "cúng", "sám". Sớ có thể coi là một bài văn khấn của Phật giáo vì đầy đủ bố cục nội dung: lung khởi, địa chỉ tín chủ làm lễ, lý do buổi lễ, làm ở đâu, thỉnh ai, cầu cái gì, ...

- Trong bốn bản sớ Văn Tiến, sám, cúng giỗ tổ tiên dưới đây đều có thỉnh Phật, "ngưỡng can Đại giác phủ giám vi thành", "tam bảo chứng minh", ... lý do tại sao? 

Lý do: sự khác nhau về chúng sinh quan giữa Nho giáo và Phật giáo

- Phân tích: 

     + Nho giáo: không có thuyết lục đạo luân hồi, tổ tiên chết đi đều thành "quỷ", "linh" (nhân tử vi quỷ, quỷ tử vi tiệm). Nho giáo không có địa ngục. Tất cả tổ tiên chết đi rồi lên trời, hưởng cúng tế của con cháu. Tổ tiên hưởng trực tiếp phần linh khí từ lễ vật ("tiên hưởng kì khí")

     + Phật giáo: sau khi tổ tiên chết đi tùy nghiệp mà sinh vào làm Người, làm trời, làm thần tiên, làm súc sinh, ngã quỷ, về Tây Phương cực lạc, ... Từ cõi trời trở lên, không dùng vật thực của thế gian vì tanh hôi. Súc sinh thì không thể vồ đồ cúng lễ. Ngạ quỷ thì chỉ có một vài loại ăn được trực tiếp đồ ăn. Tóm lại, theo thế giới quan PG thì tổ tiên không hưởng trực tiếp lễ vật. Chính vì vậy, muốn cúng tổ tiên, phải đem lễ vật, gia trì bằng thần chú, biến thành "pháp thực", cúng dàng thượng Phật, Trung thánh, hạ cập lục đạo phẩm (trong đó có ông bà tổ tiên), rồi lại lấy công đức đó để hồi hướng cho ông bà tổ tiên. Tức là trong tín ngưỡng Phật giáo, "đồ ăn" của ông bà tổ tiên là pháp thực, là công đức chứ không phải là đồ ăn đang bầy trên mâm. Chính vì vậy, mà Tuy lễ tổ tiên, nhưng trong sớ Văn lúc nào cũng thỉnh Phật. Lối sớ Huế còn nhờ Thổ địa, Táo Quân chuyển sớ Văn lên thiên đình, nên lúc làm phải lễ thêm cả thần linh tại gia.

Đây chính là chân đế của việc tại sao tín đồ Phật giáo lại thường hay niệm Nam mô A Di Đà Phật trước khi lễ tổ tiên, thần linh, ... Danh hiệu A Di Đà Phật, được hiểu là vô lượng thọ - vô lượng Phúc Đức, vô lượng quang - vô lượng trí tuệ - mà trí tuệ bát nhã lại khai ra Diệu Hữu vô cùng vô biên, biến hiện cái gì cũng được. Chính vì vậy, mở đầu bài cúng, tín đồ Phật giáo thường niệm Phật A Di Đà để gia trì khiến việc hiến cúng tổ tiên được thành tựu như Pháp. Chứ đừng có sợ niệm Phật rồi Phật ăn hết của ông nội bà ngoại nha các học giả. 

Các nhà học thật học giả đã nghe rõ chưa???

Thêm một ví dụ nhầm lẫn kiểu này nữa: Tác giả cho rằng: việc kiêng kị thổi hương bằng mồm là ... vớ vẩn: "mấy thứ này thì dĩ hư truyền hư thôi ... Rồi miệng hô xướng, miệng đọc chúc... nếu bảo miệng bẩn thì chả nhẽ lễ ... câm". Không thổi bằng mồm là thể hiện sự trang trọng, không thuộc thể chế thành văn mà là quy tắc bất thành văn. Giống như có nhiều thứ không ai cấm, nhưng không ai làm vì nó đã được hiểu ngầm trong cộng đồng. Bát là để ăn, chậu cũng dùng ăn được, nhưng không ai dùng. Nếu bảo không có luật cấm ăn bằng chậu nên ai bắt phải ăn bằng bát là "dĩ hư truyền hư", thì mong tác giả thực hành trước (!). Chính vì cho rằng quan phương, lễ chế, thành văn mới đúng, dân gian, nôm na, truyền khẩu, bất thành văn là sai, thành ra, các anh tổng sỉ vả vô số tiền nhân của mình!

5. Cách tiếp cận với đạo Phật lệch lạc, không toàn diện

Xét ra, chính tác giả nói rằng: "Mình không muốn đưa phật giáo vào nội dung ở đây", nhưng chính tác giả lại nhắc đến Phật giáo rất nhiều lần! Mà phải chi nhắc đúng thì không sao. Đằng này không có một nhận định đánh giá nào nên hồn nên thân cả. Thành ra, anh ta bị phản đối cũng là do xúc phạm đến Phật giáo đồ một cách thiếu hiểu biết.

Nguyên nhân thiếu hiểu biết là do đâu? Đó là do tiếp cận Phật học với hệ tài liệu méo mó, mất cân đối

Trên tinh thần cầu thị, tôi đã góp ý chân thành: "Nho với Thích vốn ít khi ưa nhau, nên đọc sách của nhau chưa chắc đã liễu nghĩa, em nghĩ bác nên khắc phục hạn chế của các cụ". Nhưng xem ra tâm ngã mạn của ảnh còn cao lắm. 

Tác giả nói: "Mình không muốn đưa phật giáo vào nội dung ở đây, vì các bác thường nói đến ông phật, các ông phật tôn giáo, còn tôi nhìn theo góc phật lịch sử", "Thích không phải là đạo Phật, chữ đó cũng là một sự ngộ nhận, Thậm chí Thích là một lối lấy Phật trộn vào Tông pháp chế", "Mình không muốn gây tranh luận, nhưng vị phật trong kinh ở VN và TQ tiếp cận là rất xa la với phật giáo quốc tế. (mà mình cũng chưa bit là "quốc tế" nào hehe :)) Người học phật nghiêm túc thì nói vậy sẽ hiểu ngay"

Và tác giả giới thiệu những cuốn này được gọi là "kinh điển" để hiểu Phật giáo (!)

"Mình giới thiệu bạn độc một số cuốn này:

1. Toàn cảnh phật giáo

2. Nguồn gốc phật giáo - Gombrich

3. Nguồn gốc thiền phật giáo - j. Armstrong"

Anh ta cho rằng người khác bị tôn giáo nhồi sọ, chỉ biết tin vào kinh mà không chịu nghiên cứu bên ngoài. Trong khi chính vì không chịu đọc kinh mà tác giả mới sai lầm như thế. Anh ta lại cho rằng, Phật giáo mà Việt Nam, Trung Quốc tiếp cận là "ông phật tôn giáo", "xa lạ với phật giáo quốc tế" (mà không rõ là quốc tế nào???); ngược lại thì, ảnh "nhìn theo góc phật lịch sử". Xin thừa rằng, không dựa vào kinh văn truyền thừa, thì là phi lịch sử chứ "lịch sử" ở chỗ nào? Đành rằng hình ảnh Phật trong kinh đôi khi quá huyền ảo, nhưng phải biết chắt lọc, kết hợp cùng khảo cổ, điền dã, ... rồi mới đem vào suy luận. Hơn nữa, Ông Phật tôn giáo cũng là một dạng biểu tượng, một dạng lưu trữ kí ức từ quá khứ, cần được nghiên cứu. Không có gốc mà đòi suy luận, đúng là xây nhà trên hư không, xây nhà sàn 4 chân mà cưa mất 1. 

Một điều đáng chú ý nữa là, tuy sùng bái Nho giáo nhưng anh long lại ... không biết đọc chữ Hán (!?). Anh đánh vần mãi không ra chữ "chiêu tài tiến bảo" trên thoi vàng, anh chú thích tiếng Việt một nơi, tiếng Hán một nẻo. Ngũ lộ tài thần thì anh ghi thành "Ngũ lộ thần tài", Tốc thần tài thì anh oánh thành "Thiên tài thần", ... Dẫn chứng công dụng cúng dàng của hương thì anh dùng bản dịch (mà không may lại là bản dịch ý, không sát nguyên văn), nên dẫn đến kết luận cũng sai (xem bài "Nên có cái nhìn rộng mở hơn ...")


Nghiên cứu Phật học mà không nghiên cứu đủ kinh điển các bộ phái, tông môn, các nguồn Phạn, Pali, Hán, ... Không đọc kinh văn, rồi lại đọc sách nghiên cứu về Phật chỉ qua một nguồn phương Tây là sai lầm chí tử của y. Không phủ nhận có những học giả phương Tây có lòng với Phật giáo, nguyên cứu Phật giáo toàn diện cả Đại - Tiểu thừa, có vị còn xuống tóc xuất gia, ... Tuy nhiên, công tâm mà nói Phương Tây là nơi chia rẽ Phật giáo, kích động phái Theravada về vấn đề "ngươn thủy - dị giáo", rồi lại hủy diệt cả một nhánh Mật tông Theravada, hạn chế Phật giáo để truyền đạo Công giáo hoặc Tin lành, ... Sau khi nhận thấy cái hay của Phật giáo thì lại chủ trương nghiên cứu Phật giáo theo kiểu triết học đơn thuần, tuyên truyền hủy bỏ hình thức thầy trò truyền nối, chỉ cần tự đọc kinh sách là đã "theo Phật" rồi, kêu gọi bỏ tụng kinh gõ mõ, đầu tròn áo vuông, cổ xúy các nước Phật giáo theo tân tăng Nhật bản lấy vợ sinh con, ... trong lịch sử PGVN có một ông chuyên đọc các tác phẩm của Tây viết về Phật, và cuối cùng không giải tỏa được mâu thuẫn đông - tây - ông cởi áo tu ra về. Đó là cựu thiền sư Thiện Chiếu. Còn ảnh, anh không có áo tu để cởi nên anh cũng chỉ biết thể hiện cái lối Tây-Phật của anh bằng cách ủng hộ anh Tú mà thôi!? Ban đầu, Tôi vẫn chưa hiểu tại sao một người tự xưng "học giả" lại có thể có nhiều lỗ hổng nền nghiên cứu, thủng phông văn hóa to như thế, thì khi tôi nhìn thấy anh ta là fan Anh Tú, và tôi đã hiểu tất cả :)))

Xin nhắc lại câu thơ chế của Anh Tú Tuệ mà anh hâm mộ:

“Người ngu nghĩ mình ngu

Nhờ vậy thật có trí

Người ngu tưởng có trí

Trí đó gọi chí long”. :)

Xin dẫn thêm vài ví dụ để thấy rõ thêm, anh long đã nhìn nhận Phật giáo một cách nhầm lẫn tai hại như thế nào.

Về công dụng thỉnh mời và cúng dàng của hương trong Phật giáo

Nhóm tác giả cho rằng:

"Dùng mùi thơm của hương để "kết nối" giữa người cúng với quỷ thần nên chất lượng hương quan trọng mà không chấp vào số lượng. Cũng nên phân biệt việc dùng hương cúng giỗ và cúng Phật. Với việc lễ Phật, hương được coi là vật phẩm dâng cúng mà không phải là "phương tiện" như trong cúng giỗ, nên khi lễ Phật, thường phải dùng 3 nén."

"Trong cúng Phật, thì hương là một vật phẩm dâng cúng để tỏ lòng quy về Phật - Pháp, chứ không mời gọi hay cầu mong Phật. Cho nên huân hương, tán hương là để biến ít thành nhiều mà cúng Phật. Cho nên đốt 3 cây để cúng dường Phật, Pháp, Tăng và chúng sinh

Trong thờ cúng tổ tiên và gia thần, hương lửa để lấy mùi thơm để cầu thần giáng ngự. Thượng hương là phương tiện kết nối, cầu thần phần dương, loại tửu cầu thần phần âm. Do đó, chọn số lẻ que hương tỏ ý tính dương.

Đây là 2 điểm khác biệt chính yếu."

"Đại thừa cho rằng có cõi toàn bộ các vị Phật ở, Tiểu thừa cho rằng Phật không phải là tập trung một nơi. Cho nên không có chuyện mời xin cầu gọi Phật


Khi hỏi căn cứ vào đâu thì họ nói: "Hương trong Phật khác hoàn toàn ý nghĩa hương trong thờ cúng tổ tiên. Bác đọc các bài tán hương, nguyện hương thì hiểu", rồi dẫn ra cứ liệu sau đây:


Thật đáng tiếc, Nhóm học giả này khẳng định: "hương và hương cụ là một nội dung quan trọng nhất của cuốn sách (của họ), qua đó hiểu rõ bản chất, nguồn gốc, lịch sử và ý nghĩa của hương trong các tôn giáo, tín ngưỡng", thế nhưng lại phán đoán sai bản chất, nguồn gốc, lịch sử và ý nghĩa của khái niệm trung tâm! (chí ít là trên khía cạnh văn hóa Phật giáo)

Thứ nhất: Quan niệm về hương trong Phật giáo không chỉ đơn giản là vật phẩm cúng dàng.

Hương là 1 trong lục cúng - 6 loại vật cúng dàng như pháp. Chức năng "vật phẩm cúng dàng" của nó không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, quan niệm về chức năng của hương trong Phật giáo không chỉ đơn giản như vậy. 

Trong kinh Trường A hàm có câu chuyện con gái của ông trưởng giả cấp cô độc bị gả đi sang nước ngoài. Đến nơi cô bị ép làm chay cúng dàng đến các lõa thể sư. Không thể từ chối, nên cô ra tối hậu thư là phải để cô cúng dàng trai tăng Đức Phật trước rồi mới cúng dàng ngoại đạo sau. Nhà chồng cô đồng ý vì nghĩ rằng cô không thể mời Đức Phật từ xa như thế được. Cô bèn đem lò hương lên trên thành cao đốt và khấn nguyện. Làn hương bay đến trong tịnh xá Đức Phật, Đức Phật liền hiểu ngay và bảo thánh chúng chư tăng vận thần túc bay đến dự lễ trai tăng của cô gái. Chính vì vậy Hương gọi là Như Lai sứ, sứ giả đi mời Đức Như Lai, đốt hương cũng dùng để thỉnh Phật chứ không phải chỉ là món cúng dàng đến Phật.

Tiếp đến, trong Kinh lăng nghiêm có nói đến nguyên lý của việc đốt Hương. Nguyên tắc của cảm ứng khi đốt Hương là: "tâm lô tính hỏa, hỏa biến thập phương". Nhờ làn khói hương tác động đến hỏa đại trong hư không mà cảm ứng được đến các cõi. Đây cũng là một ví dụ cho công năng truyền tin của Hương trong Phật giáo

Thứ hai: Về dẫn chứng của tác giả

Tác giả dẫn khóa lễ Phật của ngài Hoằng Tán (do cụ Thích Đồng Bổn dịch). Nếu tiếp xúc với nguyên bản chữ Hán, ta thấy rằng cụ Thích Đồng bổn đã dịch ý chứ không dịch sát với văn bản gốc

Nguyên văn: "Giới hương định hương giải thoát hương, quang minh vân đài biến pháp giới, cúng dàng thập phương vô lượng Phật. văn hương phổ huân chứng tịch diệt" (戒香定香解脫香。光明雲臺遍法界。供養十方無量佛。聞香普熏證寂滅) (bản dịch: "Hương giới định cùng hương giải thoát. Xoay vần sáng lạn trước đài sen. Khắp xông pháp giới đại thiên. Con xin dâng cúng thánh hiền tam tôn" chỉ nói được công dụng "cúng của hương" mà vô tình bỏ mất công năng "văn hương phổ huân chứng tịch diệt" - công năng thanh lọc và định tâm của hương)

Nguyên văn chữ Hán (cuối cuốn sách được dẫn trên):

Ngay trong nghi thức trên đã chú: "Hương vi Phật sứ, cố tiên hiến chi" (香為佛使。故先獻之 - Hương là sứ giả của Phật, cho nên hiến đầu tiên). Tức là, ngay cả văn bản mà tác giả lấy ra để dẫn chứng còn phản đối lại chính ý kiến của tác giả! Ai tai!

Ngoài ra, Khóa lễ của ngài Hoằng Tán là "khoa của tổ" chứ không phải "kinh của Phật" nên không thể lấy đó để quy chụp cho toàn bộ Phật giáo. Nếu lấy ví dụ trong khoa cúng thì vô cùng đa dạng. Ví dụ như nhiên hương thần chú ở trong khoa cúng Phật có đoạn:

"Giới Hương Định Hương dữ Tuệ Hương 

Giải thoát giải thoát tri kiến Hương 

Quang Minh Vân đai biến pháp giới 

Cúng dàng thập Phương vô lượng Phật 

Hương Tài nhiệt lô phần bảo đỉnh trung 

Chiên đàn trầm nhũ chân kham cúng" 

Đoạn này nói đến chức năng cúng dàng. Nhưng đoạn tiếp theo: 

"Hương Yên liễu nhiễu Liên Huê động

Chư phật bồ tát Hạ Thiên cung 

Thanh Lương Sơn La Hán 

Nạp thụ nhân gian cúng"

Thì đoạn tiếp theo lại nói đến cả việc dùng Hương thỉnh Phật nhận cúng dàng

Hay như bài kệ:

Chân kỳ chủng tính phi tầm thường

Tín thị cao phong ngũ phận hương

Tuệ hoả kiền tương nhiên tính đỉnh

Giao thông tam giới cộng phân phương

Cũng nói đến sự giao thông cảm ứng đạo giao.

Thế cho nên cần mới khẳng định. Vật phẩm cúng dàng hay sứ giả thỉnh mời là hai mặt của một vấn đề, sự lý dung thông trong Phật pháp. Chấp vào bất cứ mặt nào cũng là sai lầm!

Về câu khấn "Nam mô A di đà Phật" ở đầu và cuối văn khấn gia tiên

Như trên đã trích, tác giả còn nói: "nam mô ... là một phương tiện tu tập thông qua niệm của Phật giáo, không liên quan gì đến cúng tế tổ tiên và gia thần. Việc cố tình hiểu Phật cao hơn nên cứ niệm để bao trùm là bịa đặt", hay: "Niệm Phật hiệu là một pháp tu chứ không phải thứ để khởi động!", "Niệm "Nam mô A Di Đà Phật!" là một khóa tu, cách tu của Tịnh độ tông, không phải là câu khởi lễ thông thường. Ngoài ra trong gia đình còn chấp lễ sát sinh, lễ vật cúng thần quỷ luôn có rượu thịt, lạm dụng câu niệm này nhiều khi có tác dụng bất thiện, cần cân nhắc thận trọng!"

Với ảnh hưởng phổ quát của Tịnh độ tông, dần dần câu Phật hiệu "Nam mô A di đà Phật" được sử dụng mở đầu và kết thúc cho mỗi bài khấn trở thành phương tiện hết sức Thiện xảo để lan tỏa Phật đạo vào từng gia đình, và được số đông dân chúng chấp nhận (có thể tham khảo thêm bài viết của page về "Khấn Nam mô A Di Đà Phật là đúng hay sai?"). 

Xin trích toàn bộ ra đây để độc giả tiện theo dõi:

Gần đây có nhiều người cứ trích dẫn vài văn bản khấn Hán cũng như Nôm và nói rằng, phải khấn theo lối "Duy ... cẩn cáo" thì mới là chuẩn "lối cổ". Họ còn tuyên truyền việc thêm “Nam Mô A Di Đà Phật” phía trước chỉ mới xuất hiện gần đây, và do những người thiếu hiểu biết hoặc là do chủ đích của vài người (sư) để lối kéo tín đồ.

Thiết nghĩ, việc cho rằng đa phần người dân “bị lừa” vì theo các cuốn này và đòi tách bạch gia tiên với Phật giáo thì cần xem lại. Việc tách bạch này vốn thuộc tự do tín ngưỡng của họ. Tuy nhiên tín ngưỡng gia tiên và Phật giáo ở Việt nam đâu chỉ đơn giản à được khẳng định qua vài trang khấn Hán, Nôm chỗ có chỗ không như thế. 

“Nam mô A Di Đà Phật” là “lục tự hồng danh” quen thuộc của Tịnh độ tông nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung. “Nam mô” có nghĩa là quy y, kính lễ. “A di đà Phật” là tên của một vị Phật. Đức Phật này thành Phật đã 10 kiếp. Nhân địa tu hành của ngài đã phát 48 đại nguyện rộng lớn và kiến tạo nên Cực lạc quốc tại Tây phương là đạo tràng tiếp dẫn chúng sinh 10 phương về tu học. A di đà có thể dịch là vô lượng thọ, vô lượng quang, trường thọ, … Lục tự hồng danh nghĩa đen của nó là: quy mạng lễ đức giác ngộ tên Vô lượng thọ. 

Khi đức A Di Đà Phật còn đương hành đạo bồ tát ngài đã phát ra 48 nguyện lớn, trong đó có nói:

“Nguyện lớn thứ mười bảy: Nếu con thành Phật, mười phương thế giới, vô lượng chư Phật, chẳng đều khen ngợi, danh hiệu của con, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười tám: Nếu con thành Phật, mười phương chúng sinh, dốc lòng tin ưa, muốn sinh nước con, cho đến mười niệm, nếu chẳng sinh về, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. Trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng Chính Pháp. 

Nguyện lớn thứ hai mươi: Nếu con thành Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ nước con, trồng các cội đức, dốc lòng hồi hướng, muốn sinh nước con, chẳng được toại nguyện, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ ba mươi tư: Nếu con thành Phật, các loài chúng sinh, ở khắp mười phương, vô lượng thế giới, chẳng thể nghĩ bàn, của các Đức Phật, nghe danh hiệu con, chẳng được các Pháp, Vô sinh pháp nhẫn, chư thâm tổng trì, của hàng Bồ Tát, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ ba mươi lăm: Nếu con thành Phật, có người nữ nào, ở khắp mười phương, vô lượng thế giới, chẳng thể nghĩ bàn, của các Đức Phật, nghe danh hiệu con, hoan hỷ tin ưa, phát tâm Bồ Đề, chán ghét thân nữ, sau khi mệnh chung, lại làm người nữ, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ ba mươi sáu: Nếu con thành Phật, có các Bồ Tát, ở khắp mười phương, vô lượng thế giới, chẳng thể nghĩ bàn, của các Đức Phật, nghe danh hiệu con, sau khi thọ chung, thường tu phạm hạnh, đến khi thành Phật, chẳng được như vậy, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ ba mươi bảy: Nếu con thành Phật, trời người nhân dân, ở khắp mười phương, vô lượng thế giới, chẳng thể nghĩ bàn, của các Đức Phật, nghe danh hiệu con, năm vóc sát đất, cúi đầu làm lễ. Hoan hỷ tin ưa, tu hạnh Bồ Tát, chư thiên, người đời, thảy đều kính trọng. Chẳng được như vậy, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ bốn mươi mốt: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, đến khi thành Phật, các căn thiếu khuyết, chẳng được đầy đủ, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác 

Nguyện lớn thứ bốn mươi hai: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, đều nhanh chóng được, các môn tam muội, giải thoát thanh tịnh. Trụ tam muội ấy, trong khoảng một niệm, phát tâm cúng dàng, vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chư Phật Thế Tôn, chẳng mất định ý, chẳng được như vậy, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác.

Nguyện lớn thứ bốn mươi ba: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, sau khi mệnh chung, sinh nhà tôn quý. Chẳng được như vậy, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ bốn mươi bốn: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ công đức. Chẳng được như vậy, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác.

Nguyện lớn thứ bốn mươi lăm: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, thảy đều chóng được, Phả Đẳng Tam Muội, trụ tam muội ấy, đến khi thành Phật. Thường thấy vô lượng, chẳng thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật. Chẳng được như vậy, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác 

Nguyện lớn thứ bốn mươi bảy: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, chẳng liền chứng được, ngôi bất thoái chuyển, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. 

Nguyện lớn thứ bốn mươi tám: Nếu con thành Phật, các vị Bồ Tát, ở cõi nước khác, nghe danh hiệu con, chẳng liền chứng được: âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, vô sinh Pháp nhẫn, ở trong Phật Pháp, chẳng thể chứng ngay, địa vị bất thoái, thì con chẳng trụ, ở ngôi Chính Giác. ”

(Tóm gọn lại: Danh hiệu Phật đầy đủ phúc lành (vô lượng thọ) – trí tuệ (vô lượng quang) - công đức (vạn đức hồng danh), trang nghiêm, bao trùm, rộng khắp (trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác, pháp giới tạng thân A di đà Phật). Nghe được danh hiệu ngài thì phát tâm hoan hỷ, tin ưa, được vào thiền định, thoát khỏi áo đạo, vị lai chứng quả. Niệm danh hiệu ngài thì vô lượng công đức, sống được thảnh thơi, chết quy An dưỡng quốc, thường được thấy Phật, ...)

Trong Phật giáo Đại thừa, người ta dùng lục tự trên với những mục đích như sau:

1. Niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” là một phương pháp tu tập, một pháp môn trong Phật giáo: Người ta trì danh hiệu, nương vào đại nguyện của Phật để tu tập công đức, “con nay chính niệm xưng danh Như Lai, vì Đạo Bồ Đề, cầu sinh Tịnh Độ”, giữ cho “tịnh niệm tương kế, đắc tam ma địa”

2. Tuy nhiên, vì sự toàn năng của danh hiệu Phật và niệm danh hiệu Phật như vậy, nên ngoài việc sử dụng làm pháp môn tu hành, hành giả Đại thừa, Tịnh độ tông, thường dùng câu Phật hiệu dưới nhiều hình thức khác nhau. 

Họ dùng làm câu chào trong sinh hoạt hàng ngày (Phật tử chào nhau bằng câu: “Nam mô A Di Đà Phật” cũng có cái triết lí của nó. Đó là họ đang nhắc nhau về mục đích tu tập của mình để cùng tinh tấn, nhằm nhắc nhở sách tiến đồng đạo, liên hữu niệm Phật. Đó còn là thói quen ý nhị của người phương Đông. Khi chào nhau không nhất định là phải nói một câu “chào” khô cứng và khách khí. nhiều khi câu nói ấy rất bâng quơ, tính liên quan rất ít hoặc mang tính liên tưởng rất cao.). Họ dùng làm câu cửa miệng thay cho câu “Trời ơi!/ Thánh thần thiên địa ơi!” (thay đức tin của đạo nhân thiên bằng đức tin của Phật tử). Họ dùng làm lời gieo duyên, để “có ai thấy nghe, Đều phát tâm Bồ Đề, Hết một báo thân này, Cùng sinh nước Cực Lạc”. Họ dùng Phật hiệu để tịnh quang Phật gia trì (“nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã”), khiến tịnh được pháp giới, khiến trừ các chướng ngại, được hộ pháp long thiên ủng hộ. (tức là trên khía cạnh nào đó, thay cho cả thần chú tịnh pháp giới, phổ triệu thỉnh, …)

Phật A di đà, cũng giống như Tỳ lô giá na Phật là “Phật tổng” – là “pháp giới tạng thân”. Ngài ngoài là một vị Phật cụ thể, còn là “đại diện tiêu biểu” cho cảnh giới thanh tịnh Ngã Lạc Tịnh Thường của chư Phật. “Thập phương Chư Phật thái hư không/ bách ức phân thân hiển hiện đồng”. (tức là chư Phật, Bồ tát đồng nhau ở cái thể giải thoát. Niệm một danh hiệu Phật cũng như niệm muôn danh hiệu Phật và chư Bồ tát). Ngoài ra, trong tín ngưỡng tịnh độ thì “Thập phương Tam thế Phật, A Di Ðà đệ nhất, Cửu phẩm độ chúng sinh, Oai đức vô cùng cực” (Tức là trong các đức Phật thì hạnh nguyện của ngài vào hàng đệ nhất). Mà ngài, cũng như các đức Phật luôn thường thị hiện giáo hóa chúng sinh “Quang trung hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên”. Vì vậy, trong ứng phú có 2 xu hướng song song tồn tại. Xu hướng thứ 1: Trong khoa nghi, tuỳ từng mục đích mà người ta xưng danh hiệu Phật, Bồ tát: như khi dâng hương thì niệm Hương Vân Cái Bồ tát, Hương Cúng Dàng Bồ tát, Sám hối Thì niệm Cầu Sám Hối Bồ tát, … Cầu an thì niệm Diên thọ Dược sư Phật, cầu siêu thì Tiếp dẫn đạo sư A di đà Phật, ... Xu hướng thứ 2: Với các trường hợp khác, hay với người bình dân, không nắm hết được những danh hiệu kia, thì nếu chỉ cần niệm A Di Đà Phật thì cũng không khác biệt. Hay, hành giả còn tùy vào mục đích khác nhau mà lấy từng khía cạnh của hồng danh A di đà Phật để sử dụng (Ví dụ cần cầu an thì danh hiệu A di đà Phật được diễn giải là "Vô lượng trường thọ Phật"). Chính sự "toàn năng" đó đã lý giải tại sao, trong khoa chúc thực (mời vong ăn cơm) ở trong bộ Thủy lục, mở đầu khoa lại xướng: “Đại Thánh A Di Đà Phật” (3 lần).

Như vậy, cần khẳng định, khấn Nam mô A Di Đà Phật chẳng có gì là sai trái so với giáo lý cả!

Trong khi mở đầu bài khấn câu “Nam mô A Di Đà Phật” xuất hiện cũng không có gì là sai trái. Văn khấn nói đơn giản cũng như một bài phát biểu vậy. Nếu như bài phát biểu mở đầu bằng: “Kính thưa …”, tiếp đến là nội dung, và kết thúc bằng lời chúc “Chúc toàn thể quý vị …”, thì văn khấn cũng vậy. Mở đầu là câu “Nam mô A Di Đà Phật”, rồi “9 phương trời, 10 phương Phật”, trời đất, thần linh, gia tiên, … thứ tự kính trình danh hiệu chư Phật, chư Bồ tát, Thánh hiền, chư thiên chư tiên, … như vậy trong cả quan niệm Phật giáo và dân gian đều rất đúng. Phật là đấng thế tôn – tôn quý của cả thế gian, thiên nhân sư, tứ sinh từ phụ, đứng hàng đầu, tiếp đến là lần lượt theo Thánh chúng theo chứng quả, cảnh giới, … lúc kết thì có thể hiểu, câu “Nam mô A Di Đà Phật” xuất hiện như lời bái tạ, cũng có thể hiểu là một cách thay thế quyền biến cho một danh hiệu đúng hơn: Nam Mô Công Đức Lâm Bồ tát. Trong Đạo giáo cũng vậy, khi bắt đầu hay kết thúc thì xướng “Phúc sinh vô lượng Thiên tôn”.

Ngay cả việc khi người dân không theo Phật giáo (tức là họ dừng lại ở mức độ tín ngưỡng, chứ nếu ác cảm với Phật giáo hay theo tôn giáo hay bài xích, coi thường các đạo khác thì hẳn họ không thể “Nam mô …” được), hoặc khi lễ ở những nơi thờ tự không phải của Phật giáo nếu họ khấn câu “Nam mô A Di Đà Phật” cũng không có gì sai. Vì các tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam ta vốn hoà quyện chặt chẽ. Mẫu cũng là tín đồ Phật, là Bồ tát. Thành hoàng khi sinh thời ắt cũng là con dân Việt Nam, cũng kính Phật trọng tăng (Trong Việt điện U linh, Lĩnh Nam chích quái cũng có nhiều vị thần nhân nước Việt, sơn xuyên tú khí, phúc thần một vùng: hoặc giúp sư chọn đất xây chùa, hoặc thủ hộ già lam, hoặc thụ lĩnh tịnh giới, hoặc cung nghinh Phật hoàng, …). Khi thác hoá cũng trong Tam giới, quốc độ của Phật. Gia tiên tiền tổ cũng tương tự, khi sống cũng là thiện nam tín nữ từng lễ, vãn cảnh chùa, hoặc thụ ưu bà tắc, ưu bà di giới, khi chết thì quy âm, hoặc kí hậu, ... Còn nếu dân ta có thờ những vị báng Phật huỷ tăng (Ví dụ: Thiên ma Ba Tuần, …) thì lúc đó hành động này mới trở nên sai. Nhưng tất nhiên điều đó lại không xảy ra. Người Việt đến tận bây giờ số người nhận mình có tôn giáo nói chung vẫn là rất ít nhưng sinh hoạt tín ngưỡng gắn với tôn giáo thì lại không liên quan đến vấn đề trên. Đơn cử như tín ngưỡng gia tiên mà người Việt theo. Hầu như tất cả các đám ma của người Việt đều phải có đoàn các già các vãi đến hộ niệm, mang tràng, phan phướn, kéo cầu, rước Phật, ... đi đưa vong dù người đó có theo Phật hay không, đây là nét văn hóa đã quá quen thuộc. Lễ 49 ngày là loại lễ mà hầu như ai cũng biết, đến gia đình không “theo chùa”, Phật cũng làm cơm cúng hoặc mời họ hàng, số 49 là con số huyền thoại đôi khi được người Việt cả già lẫn trẻ mang ra bỡn cợt nhau vì nó là nét văn hóa quá đỗi phổ biến. Nhưng mốc 49 này là ảnh hưởng của Phật giáo. Rằm tháng 7, xá tội vong nhân ảnh hưởng pha trộn Đạo giáo nhưng không thể không kể đến ảnh hưởng của Kinh Vu lan bồn với tích Mục Liên tầm mẫu, hay ảnh hưởng của Kinh Địa tạng. Khái niệm theo đạo Phật và không theo đạo Phật ít được đặt ra ở làng quê Việt vì họ ít quan tâm nhưng họ đều nhận làng họ có chung một ngôi chùa, và đó như ban thờ Phật chung của cả làng.

Việc xuất hiện 2 tập văn khấn với 2 thể thức khác nhau như trên cũng không có gì là lạ, khác nhau chứ chưa chắc đã là 1 trong 2 phải sai. Mỗi tác giả, mỗi tác phẩm có một tư tưởng chỉ đạo khác nhau, và chúng đúng theo quan điểm ấy. Quyển văn khấn của HT. Thích Thanh Duệ đứng trên con mắt Phật giáo và tập tục dân gian. Còn tập văn khấn của NXBVHDT lấy quan điểm, văn phong Nho giáo làm chủ, thiên về lối chúc văn, văn tế của các ông đồ xưa tại các làng xã (kết bằng “cẩn cáo”). Hiện tượng này không có gì là lạ. Khi đọc 2 tập sớ văn là “Công văn tâm nang”(Phật giáo) và “Tam giáo sớ văn hợp lục” (Tam giáo, thiên về Đạo giáo, vì tàng bản ở Đền Ngọc Sơn vốn là đền thờ Đạo giáo) ta cũng thấy như vậy. thường “Tâm nang” sẽ thỉnh từ “Nam mô thập phương vô lượng thường trụ Tam bảo”, còn “Tam giáo” thì là “Tam giáo giáo chủ đại thiên tôn” …

Tóm lại: các cách khấn khác nhau về mặt hình thức. Còn nếu xét sâu xa thì bên trong nó đều có đạo lý của nó, không dưng mà nhân dân lại lưu truyền. Nhưng người phàm tục thì thường tranh nhau về hình thức: áo ta áo tàu, đạo ta đạo người, … nên nhiều khi cũng gây nên những tranh cãi không đáng có. 

Câu chuyện có khấn Phật khi cúng gia tiên hoàn toàn chỉ là tự do (không ai bắt phải khấn Phật). Cho nên những cuốn sách viết khấn Phật trước gia tiên hoàn toàn không phải “bả văn hóa”, “bịa đặt” hay “lừa mị” người dân. Vì chính từ xưa họ đã sử dụng như thế và cũng là vì chính dân Việt đã chọn mái chùa vào các làng quê họ dù họ không ý thức mình theo đạo. Hơn nữa, họ là “Thích tử” nên họ thấy mình không cần có nghĩa vụ tuyên truyền cho lối hành trì “duy … cẩn cáo” thì cũng là điều dễ hiểu. Bất tại kì vị bất mưu kì chính. Việc tác giả bài xích không cần thiết căng thẳng như vậy. Nếu nó đã cực đoan như vật thì chắc chắn là có nguyên do. Đó là nhãn quan, tư tưởng, văn hoá nền chỉ đạo ngòi bút không chuẩn xác, không nắm được những đặc điểm cơ bản của văn hoá Việt Nam, phân biệt tuỳ tiện một thực thể vốn thống nhất chặt chẽ (Phật – Mẫu, …)

Như vậy, việc khấn Nam mô A di đà Phật hay không, bài khấn cần soạn trước không hay là tùy tiện nói ra theo tâm tư tình cảm, bàn thờ một lớp hay ba lớp, bát hương để trong hay bát hương để ngoài, thờ một bát hương hay nhiều bát hương, ... Tất cả những việc đó - chuẩn hay không chuẩn, còn phải xem xem họ đang ở trong hệ quy chiếu nào. Tức là: Việc xác định giá trị đúng sai của lối thờ cúng là ở chỗ hành - giải có tương ưng hay không. Họ có thể thờ một lớp, thờ ba bát, bát hương để trong, nhưng họ có kiến thức, đủ để kiến giải chứng minh cách thờ cúng của mình là hợp lý thì lối thờ cúng đó vẫn hoàn toàn chính xác và đúng đắn. 

Tạm kết

Như đã trình bày, tác giả - đại diện phái "bàn thờ" có lỗ hổng rất lớn về kiến thức, nền tảng văn hóa, thế giới - giá trị quan, phương pháp luận nghiên cứu. Kiến thức thì bé, nhưng tham vọng lại to, muốn thay đổi cả thiên hạ để quy về lối "á tế á nhất nhị sơ tuần quỳ lên lạy xuống" sở trường của ả!
Cuộc sống là một bài toán đa nghiệm, sự độc tôn, độc đoán về chân lý có khi lại tự phản lại chính mình! Thật lòng xin góp ý với những ai có ý định "giải ảo" người khác, cũng nên tự xem xét lại lập trường của mình xem mình có bị "ảo" hay không.
Trên phương diện nào đó, thì cuộc vận động của nhóm "bàn thờ" cũng có lợi, khi đã chỉ ra một số ngộ nhận thường gặp. Thế nhưng nhóm này lại ngộ nhận rất nhiều thứ khác. Đến chừng nào họ còn đem kiến giải vô sỉ của họ đi rêu rao, thì chúng tôi sẽ xin tiếp tục hầu chuyện các cụ về "phản giải ảo"!
Cẩn cáo! Ô hô ai tai!




Đăng nhận xét

0 Nhận xét