Advertisement

Hiển - mật của việc chẩn tế: văn hóa Mông Sơn chẩn tế thí thực cô hồn nhìn từ góc nhìn bối cảnh văn hóa xã hội

Thường ở trong đàn Mông Sơn ta hay thấy bức ngạch: "hiển mật viên thông" hay "hiển mật viên dung". Hiển ở đây chính là cái hình tướng bên ngoài, những cái thuộc về bề nổi dễ thấy của một đàn lễ, còn mật thuộc về những cái uyên áo, hàm chứa ẩn giấu đằng sau nghi lễ. 

Thực sự mà nói, đằng sau mỗi một nghi lễ có quá nhiều những tầng nghĩa khác nhau, thật khó mà phân tách, có khi Phật truyện Phật tích là cái lấp ló sau tín ngưỡng dung dị, cũng lại có khi chính câu chuyện bối cảnh xã hội lại là cái bị khuất lấp sau bức tranh tôn giáo tín ngưỡng. 

Đối với đàn Mông sơn/ Chẩn tế/ Thí thực/ Du già, ... thì hầu như mọi người đều đã biết sự tích của khoa nghi này với câu chuyện Phật dạy phép biến thực - biến thủy, với duyên khởi là câu chuyện của A nan tôn giả với Diệm khẩu Quỷ vương: A nan được ngạ quỷ Diệm Khẩu báo trước sẽ chết sau ba ngày và tái sinh thành ngạ quỷ. Nếu muốn thoát chết chỉ có một cách duy nhất đó là bố thí thức ăn đến với vô số ngạ quỷ và Bà la môn Tiên. Hoảng sợ, A nan cầu cứu Đức Phật. Đức Phật đã dạy cho A nan biến thực biến thủy đà la ni cùng cách xưng danh hiệu bốn vị Phật. Nhờ thần chú này, A nan có thể bố thí thức ăn cho vô số ngạ quỷ, giúp chúng thoát khổ và được sinh lên cõi trời, đồng thời A nan cũng thoát nạn địa ngục, được sống trường thọ. Ngài cũng dặn A nan truyền bá kinh này để mang lại lợi ích cho chúng sinh.

Tối Thắng Quang Minh Tự Tại Vương,

Như lai tuyên nói diệu khôn lường,

Xưa vì Khánh Hỷ sinh hoảng sợ,

Diệm Khẩu lời sấm báo họa ương,

Cúi đầu khẩn cầu thưa giáo chủ,

Bá thí thần, quỷ lợi minh dương

Xưa nay hành trì thêm vận dụng,

Phàm Thánh cùng đi giải thoát trường.

Câu chuyện này đã khá phổ biến khiến cho phần "mật" lại hóa ra ... "hiển". Tuy nhiên, chính nội dung diễn biến của câu chuyện này vào trong xã hội lại ít người chú ý đến.

Nếu tách danh tính của nhân vật trong câu chuyện trên, thì nó có thể viết lại là: nếu như một người sắp hết thọ mệnh, sắp bị đọa địa ngục, ... mà nếu bố thí cho kẻ nghèo người khó, cúng dàng Tam bảo, thì người ấy có thể kéo dài mạng sống, không bị đọa địa ngục. 

Trong bối cảnh xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp, phân hóa giàu nghèo sâu sắc, một bộ phận quần chúng nhân dân đói khổ không khác gì ngạ quỷ sống, cô hồn sống. Ngược lại một số bộ phận giai cấp bóc lột, tuy vẫn sống không rời phương thức bóc lột vốn có của mình, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ câu chuyện nhân quả chợt đổ xuống đầu. Dựa trên bối cảnh đó, Chư Tổ vận dụng khoa cúng Mông Sơn chẩn tế cô hồn như một biện pháp Thiện xảo. Người tu sĩ lòng từ bi thì có thừa, nhưng tài vật thì không phải là vô biên. Nên họ chỉ có thể nhờ vào tài vật của tầng lớp trên để có thể giúp đỡ người nghèo khó. 

Chính vì vậy câu chuyện "cướp cô hồn", "tranh cháo thí", ... xét trên khía cạnh này, có thể nói là câu chuyện mang màu sắc thời đại, chứ không phải là câu chuyện của vùng này vùng kia, miền này miền nọ, ... như một số trang giải thích.

Quay lại với câu chuyện chẩn tế, tại sao có người quan niệm đồ ăn cướp được từ lễ cúng cô hồn là "Lộc", có người lại cho là "Độc". Xét trên quan điểm người Trần mà nói thì chắc chắn nó là ... Lộc (ăn chùa). Nhưng xét về mặt tâm linh thì nó lại "độc", vì người ta tin rằng những đồ ăn ấy nặng âm khí, trẻ con ăn vào dễ ốm đau. Tuy nhiên nếu quay lại với góc nhìn như trên đã phân tích, thì ta còn thấy sự khác biệt trong quan niệm này còn là hệ quả của bối cảnh xã hội của nghi lễ nữa. Để triệt để bố thí cho người dân nghèo, trong đàn Mông Sơn quy định, người chủ bố thí và người Pháp chủ đứng Lễ không được thụ dụng đồ ăn của đàn tràng này, tất cả sau khi cúng là phải đem phân phát hết, phân phát càng nhiều thì càng nhiều lộc. Chính vì thế đối với người chủ thì Lộc hóa thành độc, còn đối với người dân thì độc lại hóa thành ... Lộc

Lại tiếp tục với vấn đề bối cảnh xã hội, chính vì lễ nghi sinh ra trong bối cảnh xã hội nhất định nên khi bối cảnh thay đổi thì chắc chắn sẽ có sự biến đổi trong việc thực hành nghi lễ.

Xin khái quát mấy hướng biến đổi khá đáng chú ý sau đây:

- Khuynh hướng giàu: Xã hội khấm khá lên, đàn Mông sơn không còn đóng vai trò phương tiện cướp của người giàu chia cho người nghèo nữa. Vì vậy mọi người cũng khá ít vồ vập với việc cướp đồ cúng. Quan niệm "ăn tranh của cô hồn là độc" trỗi dậy. 

- Khuynh hướng Bồ tát: chính nhờ xã hội xóa bỏ phân biệt giai cấp, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp lại đã tạo điều kiện cho một bộ phận Phật tử thực sự đến với thí thực với tinh thần từ bi nguyên gốc, họ tự nguyện bá thí  và tham gia với cả tinh thần mĩ học, đạo đức, yêu chuộng văn hóa, ... 

- Khuynh hướng thoát chùa: Nghi thức Mông sơn từ việc là nghi thức của thiền môn, dần được hạ cấp thành nghi lễ tại gia do gia chủ tự thực hiện. Vì người đến tham gia không còn bị văn hóa nhà chùa gò vào quy củ (cả về đối tượng, thái độ, cách thức tham gia, ...) nên xảy ra ít nhiều biến tướng, lộn xộn, thậm chí bạo lực.

- Khuynh hướng tư sản: Khi khuynh hướng giàu nổi lên và có thể cả kết khuynh hướng thoát chùa = chúng ta có khuynh hướng tư sản. Người ta giàu lên và muốn cô hồn phù trợ mình trong việc làm ăn, dẫn đến việc tư sản hóa lễ thí thực tại gia với những vật thực cúng gần như không bao giờ xuất hiện trong chùa chiền: heo quay, tiền mặt (thậm chí mệnh giá lớn), gà vịt, thủ, cháo gà, gỏi vịt, ... những vật này thay thế hoàn toàn cho vật thí thực trong kinh ban đầu như cháo, sữa, nước, gạo, ... hay cháo lá đa, bồ đài lá mít, xôi vò, xôi gấc, oản, chè con ong, chè bà cốt, chè hoa cau, bánh đa, bánh lá, ... trong văn hóa chùa chiền. Chính vì giá trị đồ cúng tăng lên cũng góp phần khiến cho khuynh hướng cướp giật, bạo lực gia tăng.


Đăng nhận xét

0 Nhận xét