Advertisement

Một số điểm "mâu thuẫn" trong kinh A hàm

Một số điểm "mâu thuẫn" trong kinh A hàm

Trong quá trình nghiên cứu các kinh A hàm/Nikaya, tôi nhận thấy một số điểm như sau: về mặt nội dung, nếu chấp vào câu chữ thì có một số điểm gần như là mâu thuẫn lẫn nhau. Có thể là mâu thuẫn trong nội bộ một bộ A hàm, hoặc mâu thuẫn giữa các bộ A hàm với nhau, hoặc mâu thuẫn giữa kinh A hàm với kinh tạng Pali (trường hợp không có kinh tương đương giữa hai bộ), hoặc mâu thuẫn giữa kinh A hàm với các kinh thuộc Đại thừa. 
Thực ra nếu xét kỹ ra, trên quan điểm khách quan toàn diện, lịch sử, cụ thể, thì hoàn toàn có thể giải thích được tại sao có những điểm khác nhau đó, từ đó ứng dụng cho những trường hợp khác nhau (đem "lý thuyết màu xám" vun bồi cho "cây đời" vốn đã rườm rà, cành lá chằng chịt "mãi mãi xanh tươi". ). Tuy nhiên với phong trào Nikaya/ Therazada tự phát một cách bầy đàn đang diễn ra như hiện nay thì rất có thể những mâu thuẫn ấy được diễn giải theo một cách tà kiến để chống đối lẫn nhau giữa các trường phái, đem vào hý luận không có lợi ích gì, ... 
Như vậy bản thân tôi sau khi đọc một số kinh A hàm, có ghi chép lại một số điểm rất đáng quan tâm. Sau mỗi nội dung lại có trích dẫn kinh văn, kèm với đó là giải thích vắn tắt. Hi vọng sẽ lợi ích cho quý vị!

1.  Trong một số kinh A Hàm, Phật bảo là "các ông không nên hỏi đời sau sinh về đâu". Nhưng trong bộ kinh A Hàm, A nan lại ca tụng đó là điều "làm lợi ích cho nhiều người". Và thực sự là Thế tôn cũng đã thụ ký cho nhiều người: đã chứng quả vị gì, đời sau sinh về đâu, còn sinh lại cõi này bao nhiêu lần nữa, ...

(Tạp No. 854). Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ông theo người này qua đời, người kia qua đời mà hỏi, thì thật là phiền nhọc. Chẳng phải là điều Như Lai muốn đáp. Phàm có sanh thì có tử, có gì là lạ! Dù Như Lai có ra đời hay chẳng ra đời, thì pháp tánh vẫn thường trụ, điều đó Như Lai tự chứng tri, thành Đẳng Chánh Giác, hiển bày, diễn nói, phân biệt, chỉ dạy, rằng: Cái này có nên cái kia có; cái này khởi nên cái kia khởi; vì duyên vô minh nên có hành,... cho đến vì duyên sanh nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não và khổ ấm tích tập như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt, ... cho đến sanh diệt thì già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não diệt và khổ ấm bị diệt như vậy”

(No. 414). “Này các Tỳ-kheo, các ông chớ bàn những việc đã làm đời trước. Vì sao? Vì việc này không đem lại nhiều lợi ích cho nghĩa, pháp, phạm hạnh, cũng chẳng phải trí, chẳng phải giác, chẳng đưa đến Niết-bàn. 

(Số 4. “Kinh Xà Ni Sa)

Bấy giờ, tôn giả A-nan ngồi ở tịnh thất, thầm nghĩ:

Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Như Lai ký biệt cho nhiều người, làm lợi ích cho nhiều người. Thứ nhất, Đại thần Già-già-la mạng chung, Như Lai ghi nhận rằng, người này mạng chung, đoạn trừ năm hạ phần kết, được sanh lên trời mà diệt độ ở đó, không trở lại đời này; thứ hai, Ca-lăng-già; thứ ba, Tỳ-già-đà; thứ tư, Già-lỵ-du; thứ năm, Giá-lâu; thứ sáu, Bà-giá-lâu; thứ bảy, Bà-đầu-lâu; thứ tám, Tẩu-bà-đầu; thứ chín, Tha-lê-xa-nậu; thứ mười, Tẩu-dạt-lê-xá-nậu; thứ mười một, Da-du; thứ mười hai, Gia-du-đa-lâu. Các đại thần này mạng chung, họ cũng được ghi nhận, đoạn trừ năm hạ phần kết, liền sinh lên trời mà diệt độ ở đó, không phải sinh ở đây”.

“Lại có năm mươi người khác nữa mạng chung, Phật cũng đều ký biệt cho, đoạn trừ ba kết, dâm, nộ, si mỏng, chứng đắc Tư-đà-hàm, một lần tái sinh đời này rồi tận diệt biên tế của khổ”.

“Lại có năm trăm người nữa mạng chung, Phật cũng ghi nhận, ba kết đã diệt tận, chứng đắc Tu-đà-hoàn, không đọa ác thú, tối đa bảy lần tái sinh, chắc chắn sẽ diệt tận biên tế của khổ”.

“Có đệ tử của Phật mệnh chung ở nơi này nơi kia, Phật đều ký biệt cho, người này sanh ở chỗ này, người kia sanh ở chỗ kia”

(Tạp No. 852). “Bạch Thế Tôn, sáng sớm hôm nay con vào thành Xá-vệ khất thực, nghe tin Tỳ-kheo Nan-đồ, Tỳ-kheo-ni Nan-đà, Ưu-bà-tắc Thiện Sanh, Ưu-bà-di Thiện Sanh đều đã qua đời. Bạch Thế Tôn, vậy bốn vị này sau khi qua đời, họ sẽ sanh về nơi nào?” Phật bảo các Tỳ-kheo: “Tỳ-kheo Nan-đồ và Tỳ-kheo-ni Nan-đà vì đã hết các lậu nên đã được tâm giải thoát vô lậu, tuệ giải thoát; ngay trong đời này tự tri, tự tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa’. Còn Ưu-bà-tắc Thiện Sanh và Ưu-bà-di Thiện Sanh vì năm hạ phần kết đã hết nên đắc A-na-hàm, sanh lên cõi trời mà vào Bát-niết-bàn, không còn sanh vào cõi này nữa”

(Nội dung kinh này tương tự với kinh du hành - kinh số 2 trong Trường A hàm

Phật bảo A-nan: “Mười hai cư sĩ kia là Già-già-la, v.v... đã đoạn năm hạ phần kết nên mệnh chung sinh thiên; họ nhập Niết-bàn ở đó chứ không trở lại cõi này nữa. Còn năm mươi người kia mạng chung do đoạn trừ ba kết sử; dâm, nộ, si mỏng, đắc quả Tư-đà-hàm, sẽ trở lại cõi này để dứt hết gốc khổ. Còn năm trăm người kia mạng chung do đoạn trừ ba kết sử, đắc quả Tu-đà-hoàn, không còn bị đọa vào ác thú, chắc chắn thành đạo, chỉ trở lại cõi này bảy lần để dứt hết gốc khổ rồi thôi. Này A-nan, phàm có sinh thì có chết, đó là lẽ thường của cuộc đời, có gì là quái lạ. Nếu thấy mỗi người chết, ngươi đều tới hỏi ta như vậy chẳng là quấy rầy ư?”)

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Nguyên nhân lý giải sự mâu thuẫn này là từ vị trí, mục đích, của học trò và Đức Phật. Đức Phật thụ ký đời sau để minh xác về kết quả tu tập cho đệ tử, khuyến tấn họ tu hành. Tuy nhiên, một vài đệ tử sau khi nghe những lời thụ ký ấy thì sinh ra tò mò với những vấn đề vô ký (đời này - đời sau, thường - vô thường, ...), và mong muốn đức Phật giải đáp những vấn đề ấy để thỏa mãn thắc mắc cá nhân vô bổ của mình, hoặc có vị hỏi để cầu danh lợi, ... Chính vì vậy, việc thụ ký chính do đức Phật thực hiện, có công dụng lớn, nhưng khi đệ tử hỏi về đời sau thì đức Phật lại không muốn đáp. 

Nhìn nhận sự khác biệt trong góc nhìn Phật - Đồ chúng, như trên đã tiến hành phân tích, là một then chốt quan trọng để giải thích các mâu thuẫn dưới đây.

​2. Trong kinh Tạp A Hàm, Phật không khuyến khích hỏi về  các vấn đề siêu hình trong đó có các vấn đề liên quan đến biên tế, hạn định, cấu trúc, ... của thế giới. Nhưng trong kinh Trường A Hàm thì lại nói kinh Thế Ký nói rõ về khởi nguyên của thế giới này.

(Tạp No. 408). Một thời, Phật trú trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo tụ tập nơi nhà ăn, bàn luận như vầy: ‘Hoặc nói thế gian là thường, hoặc nói thế gian là vô thường, thế gian vừa hữu thường vừa vô thường, thế gian chẳng phải hữu thường chẳng phải vô thường; thế gian là hữu biên, thế gian là vô biên; thế gian là vừa hữu biên vừa vô biên; thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Mạng là thân, hay mạng khác thân khác. Như Lai sau khi chết là có, Như Lai sau khi chết là không, Như Lai sau khi chết vừa có vừa không, Như Lai sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không’. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ngồi Thiền tịnh ở một chỗ, bằng thiên nhĩ, nên nghe tiếng bàn luận của các Tỳ-kheo đang tụ tập ở nhà ăn. Nghe xong, đi đến nhà ăn, trải tòa mà ngồi trước đại chúng và bảo các Tỳ-kheo: “Các Tỳ-kheo ở đây tụ tập để bàn nói việc gì vậy?” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo chúng con tụ tập ở nhà ăn này bàn luận, ‘Hoặc nói hữu thường, hoặc nói vô thường’. Nói đầy đủ như trên”. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ông chớ bàn luận nghĩa như vậy. Vì sao? Vì sự bàn luận này chẳng lợi ích gì cho pháp, chẳng lợi ích gì cho phạm hạnh, chẳng phải trí, chẳng phải giác, không thuận hướng Niết-bàn. Này các Tỳ-kheo, nên luận nghị như thế này, ‘Đây là Khổ Thánh đế, đây là Khổ tập Thánh đế, đây là Khổ diệt Thánh đế, đây là Khổ diệt đạo tích Thánh đế’. Vì sao? Vì luận nghị này có lợi ích cho pháp, lợi ích cho phạm hạnh, là trí, là giác, thuận hướng Niết-bàn. Cho nên, Tỳ-kheo, đối với bốn Thánh đế nếu chưa được hiện quán, thì phải siêng năng tìm phương tiện, phát khởi ý muốn tích cực, tu học hiện quán”

(No. 411). Một thời, Phật trú trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo tụ tập nơi nhà ăn, bàn luận những đề tài như vầy: hoặc là bàn luận việc vua, việc giặc cướp, việc đấu tranh, việc tiền bạc, việc y phục, việc ăn uống, việc nam nữ, việc ngôn ngữ thế gian, việc sự nghiệp, việc trong biển cả. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ở trong thiền định, bằng thiên nhĩ, nghe tiếng bàn luận của các Tỳ-kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến nhà ăn, trải tọa cụ mà ngồi trước đại chúng, rồi bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, các ông tụ tập để bàn luận việc gì?” Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng con tụ tập ở đây bàn nói về việc vua...”. Nói đầy đủ như trên. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ông chớ bàn luận những đề tài như vầy: Bàn luận những việc vua... cho đến, không hướng đến Niết-bàn. Nếu có bàn luận thì nên nói về Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ diệt đạo tích Thánh đế. Vì sao? Vì bốn Thánh đế này có lợi ích cho nghĩa, lợi ích cho pháp, lợi ích cho phạm hạnh, là chánh trí, chánh giác, chánh hướng Niết-bàn”

Số 30. “Kinh Thế Ký” ‘Châu Diêm Phù Đề’ Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Sau bữa ăn, chúng con tập trung tại pháp giảng đường bàn luận rằng: ‘Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan hoại? Do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào?’ Chúng con tập trung tại giảng đường bàn luận vấn đề như thế”. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Lành thay! Lành thay! Phàm người xuất gia nên hành hai pháp: một là sự im lặng của Hiền Thánh, hai là giảng luận Pháp ngữ. Các thầy tập trung tại giảng đường cũng nên hành sự im lặng của Hiền Thánh hoặc giảng luận Chánh pháp. Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?”

Tăng Chi 1, trang 400~402; Tăng Chi 4, trang 182~186 (Thưa Tôn giả Gotama, Pùrana Kassapa, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận mình là có tri kiến toàn bộ không dư, nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng , ta ngủ, ta thức, tri kiến được an trú liên tục thường hằng". Vị ấy nói như sau: "Với trí vô biên, ta sống, biết và thấy thế giới hữu biên". Thưa Tôn giả Gotama, Nigantha Nàtaputta, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận mình là có tri kiến toàn bộ không dư, nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng , ta ngủ, ta thức, tri kiến được an trú liên tục thường hằng". Vị ấy nói như sau: "Với trí hữu biên, ta sống, biết và thấy thế giới hữu biên". Thưa Tôn giả Gotama, giữa hai bậc tuyên bố về trí này, giữa hai lời tuyên bố mâu thuẫn này, ai nói đúng sự thật, ai nói láo Thôi vừa rồi, này các Bà-la-môn, hãy dừng lại ở đây: "Giữa hai bậc tuyên bố về trí này, giữa hai lời tuyên bố mâu thuẫn này, ai nói đúng sự thật, ai nói láo?"…Thế Tôn nói như sau: Này các Bà-la-môn, ví như bốn người đàn ông đứng bốn phương, đầy đủ với bước đi, với tốc lực tối thắng, với bước chân dài tối thắng. Họ đầy đủ tốc lực như sau: Ví như một người cầm cung, điêu luyện khéo được huấn luyện với bàn tay thiện xảo, bách phát bách trúng, có thể bắn một cách nhẹ nhàng một mũi tên ngang qua bóng của cây tàla. Như vậy là tốc lực của họ. Còn bước chân dài của họ, thời như sau: từ biển phía Ðông đến biển phía Tây. Rồi người đứng ở phương Ðông nói như sau: "Ta sẽ đi và đạt đến tận cùng của thế giới". Dầu cho tuổi thọ của người này là một trăm năm, và người ấy sống môt trăm năm, và bước đi trong một trăm năm - trừ khi người ấy ăn, người ấy uống, người ấy nhai, người ấy nếm, trừ khi người ấy đi đại tiện tiểu tiện, trừ khi người ấy ngủ để lấy lại sức, người ấy sẽ chết trước khi người ấy đạt đến tận cùng của thế giới". Rồi người đứng ở phương Tây... rồi người đứng ở phương Bắc... rồi người đứng ở phương Nam nói như sau: "Ta sẽ đi và đạt đến tận cùng của thế giới". Dầu cho tuổi thọ... người ấy sẽ chết trước khi người ấy đạt đến tận cùng của thế giới". Vì cớ sao? Này các Bà-la-môn, Ta nói rằng, không phải với sức chạy như vậy, có thể biết được, có thể thấy được, có thể đạt được tận cùng thế giới. Này các Bà-la-môn, Ta nói rằng nếu không đạt được tận cùng thế giới, thời không thể chấm dứt đau khổ ở đời…

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Thứ 1: Thực ra 2 vấn đề trên chỉ trùng lặp 1 phần mà thôi - tức là khởi thủy thế giới mà đức Phật giảng giải, không hoàn toàn thuộc nội dung 14 vấn đề vô kí. Vì vậy, đức Phật giảng nói như vậy thì cũng không mâu thuẫn trong lời nói. Việc thế giới hữu biên hay vô biên, thường hay vô thường, ... mang tính chất trừu tượng hơn so với việc trả lời câu hỏi cụ thể diễn biến của thế giới trong tính lịch sử cụ thể của nó. Thêm 1 điểm đáng chú ý nữa, 14 vấn đề vô ký luôn ở dạng câu trả lời chọn 1 trong 2 trường hợp. Qua câu trả lời mang tính chất cụ thể của Phật, ta lý giải được vì sao đức Phật không trả lời 14 vấn đề đó. Đó chính là vấn đề ấy quá phức tạp, không thể chỉ trả lời có hoặc không - như thế là đã rơi vào đoạn diệt luận, đoạn kiến hoặc rơi vào thường kiến, rời xa Trung đạo.

Thứ 2: Cũng như trên đã giải thích, sự khác biệt trong lời dạy của Đức Phật về các vấn đề siêu hình và khởi nguyên thế giới không phải là mâu thuẫn mà là một chiến lược giáo hóa. Trong các kinh thuộc Tạp A-hàm, Đức Phật không khuyến khích bàn luận về các vấn đề siêu hình (như thế giới hữu biên hay vô biên, sự tồn tại sau khi chết...) vì những tranh luận này không mang lại lợi ích thực tế cho con đường giác ngộ. Mục đích của Ngài là hướng các đệ tử tập trung vào Tứ Thánh Đế để trực tiếp giải quyết khổ đau. Ngược lại, trong Kinh Trường A-hàm, đặc biệt là Kinh Thế Ký, Ngài lại giảng giải về sự hình thành của vũ trụ và chúng sinh. Sự giảng giải này không nhằm thỏa mãn sự tò mò mà có mục đích sâu xa hơn, đó là giúp các đệ tử nhận ra tính vô thường của vạn vật, từ đó củng cố niềm tin và thúc đẩy ý chí tu tập để vượt thoát khỏi vòng luân hồi. Như vậy, Đức Phật đã sử dụng phương pháp phương tiện (upaya), tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của người học mà đưa ra lời dạy phù hợp, tất cả đều chung một mục đích cuối cùng là dẫn dắt chúng sinh đến Niết-bàn.

​3. Trong kinh Trung A Hàm, Phật khẳng định làm phúc chịu tội là theo nhân quả, cúng bái, cầu xin không có tác dụng gì. Tuy nhiên cũng trong bộ kinh A Hàm, Phật lại nhiều lần nói về tác dụng của tế lễ cúng bái. 

Kinh Trung A hàm số 17. ‘Kinh Già Di Ni’ Thế Tôn bảo rằng: “Này Già-di-ni, nay ta hỏi ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Này Già-di-ni, ý ông nghĩ biếng nhác, không tinh tấn, lại hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện, là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến. Người ấy khi mạng chung, nếu có số đông người đến, thảy đều chắp tay hướng về người đó kêu gọi, van lơn, nói như thế này: ‘Các người, nam hoặc nữ, biếng nhác, không siêng năng, lại hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm nói dối, cho đến tà kiến. Các người nhân việc này, duyên việc này, khi thân hoại mạng chung chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời’. Như vậy, này Già-di-ni, những người nam hay nữ biếng nhác kia, không siêng năng, lại hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến; có thể nào vì được số đông người đều đến chắp tay hướng về chúng mà kêu gọi, van lơn, nhân việc ấy, duyên việc ấy mà lúc thân hoại mạng chung lại được đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời không?” Già-di-ni thưa rằng: “Không thể được, bạch Thế Tôn”. Phật khen rằng: “Lành thay, Già-di-ni, vì sao thế? Những người nam hay nữ kia, biếng nhác, không siêng năng, lại thực hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến. Nếu được số đông người đến chắp tay hướng về chúng, mà kêu gọi, van lơn, nhân việc ấy, duyên việc ấy khi thân hoại mạng chung lại được đi đến thiện xứ sanh lên cõi trời. Việc đó không thể có. “Này Già-di-ni, cũng như cách thôn không bao xa, có vực nước sâu, nơi đó có một người ôm tảng đá lớn và nặng ném vào trong nước. Nếu có số đông người đến đều chắp tay hướng về tảng đá mà kêu gọi van lơn, nói như thế này: ‘Mong tảng đá nổi lên, mong tảng đá nổi lên’. Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào? Tảng đá lớn nặng ấy có thể nào vì được số đông người đến đều chắp tay hướng về nó và kêu gọi van lơn, nhân việc đó, duyên việc đó mà sẽ nổi lên không?” Già-di-ni trả lời rằng: “Không thể được, bạch Thế Tôn!” “Cũng vậy, này Già-di-ni, những người nam hay nữ kia biếng nhác, không tinh tấn, lại thực hành ác pháp, thành tựu mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến, nếu được số đông người đều đến chắp tay hướng về chúng mà kêu gọi, van lơn, nhân việc đó, duyên việc đó mà lúc thân hoại mạng chung, được đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời; điều đó không thể có được.

Kinh Trung A hàm số 93. ‘Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí’: một người Phạm chí rủ Đức Phật đi tắm sông vì theo truyền thống thì nước sông rửa được nghiệp chướng. Thế Tôn nói lên bài kệ để giải thích rằng các con sông không có khả năng gột sạch tội lỗi của người làm ác. Kẻ thanh tịnh trong sạch thời ngày nào cũng tốt lành, vì người ấy chỉ làm các nghiệp trong sạch và chỉ nên tắm ở đây thôi. Một người không dối trá, không làm hại chúng sanh, không lấy của không cho, không tham, có lòng tin thời đi tắm sông làm gì. 

Kinh Trường A hàm số 25. “Kinh Lõa Thể Hình Phạm Chí”: Sa-môn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy. Cù-đàm, nếu có người nói rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy’. Đó có phải là pháp ngữ, pháp pháp thành tựu, không phỉ báng Sa-môn Cù-đàm chăng? Phật nói: Ca-diếp, người kia nói: ‘Sa-môn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy’. Đó không phải là lời nói đúng pháp, không phải pháp thành tựu, là phỉ báng Ta, không phải là lời nói thành thật. 

Kinh Trung A hàm số 142. Kinh Vũ Thế: tóm tắt: vua A xà thế muốn đánh nước Bạt kì, bèn cho sứ giả tên là Vũ Thế đến hỏi ý đức Phật. Đức Phật trả lời một cách gián tiếp là nước Bạt kỳ có 8 phép làm cho đất nước không bị suy giảm, luôn luôn Hưng Thịnh. Trong các nội dung ấy có kể đến: "người nước Bạt-kỳ nếu có chùa cũ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng cúng dàng, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu tập tục đã làm.". Một câu chuyện tương tự trong kinh Du hành trong Trường A hàm kinh, Đức Phật nói:  “Này A-nan! Ngươi có nghe dân nước Bạt-kỳ thường tôn trọng tông miếu, kính nể quỉ thần không?”

- “Con có nghe”.

- “Này A-nan, nếu được như vậy thì lớn nhỏ hòa thuận, nước đó càng thêm thịnh vượng và yên ổn lâu dài,không thể xâm hại được”.

Tăng Chi 2, trang 374~376 (Này Gia chủ, có năm lý do này để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp; tự làm mình an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; làm cho mẹ cha an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; làm cho vợ con, người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc. Ðây là lý do thứ nhất để gây dựng tài sản…. Vị ấy làm cho bạn bè thân hữu an lạc…; Các tai họa từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ kẻ thù hay từ các người thừa tự được chận đứng, và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy….; Hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho hương linh đã chết (peta), hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên….; đối với các Sa-môn, Bà-la-môn nào ly kiêu mạn, ly phóng dật, an trú nhẫn nhục, nhu hòa, nhiếp phục tự mình, an tịnh tự mình, làm lắng dịu tự mình, đối với những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy vị ấy tổ chức sự cúng dường tối thượng, đưa đến cảnh giới chư Thiên, được quả dị thục, đưa đến cõi trời

Mặt khác trong kinh Tam Minh, kinh lục phương lễ bái: Đức Phật cũng duy trì hình thức lễ bái đã sẵn có của người Ấn Độ chỉ thêm vào đó các nội dung quán tưởng mang tính chất ý nghĩa Phật giáo mà thôi

Lý giải sự "mâu thuẫn":

1. Cúng bái, cầu xin không có tác dụng thay đổi nhân quả: Các kinh như Kinh Già Di Ni hay Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí khẳng định một nguyên lý cốt lõi của Phật giáo: luật nhân quả. Công đức hay tội lỗi của một người hoàn toàn do chính người đó tạo ra và phải tự gánh chịu.

2. Cúng bái, tế lễ có tác dụng tích cực trong xã hội

Mặt khác, trong các kinh như Kinh Vũ Thế hay Kinh Tam Minh, Kinh giáo thọ Thi ca la việt, ... Đức Phật lại thừa nhận và duy trì một số hình thức tế lễ đã có sẵn trong xã hội Ấn Độ.

Lý do: Đức Phật không chê bai tất cả các nghi lễ. Ngài nhìn nhận các nghi thức này dưới góc độ phương tiện giáo hóa và ổn định xã hội. Khi người dân cùng nhau tu bổ chùa tháp, duy trì các lễ hội truyền thống, hoặc tôn trọng thần miếu, điều này tạo ra sự đoàn kết, hòa thuận, và ổn định cho quốc gia (như lời Đức Phật nói về dân nước Bạt-kỳ).

Mặt khác, ngài hoàn toàn có thể sử dụng các nghi lễ tế tự đó để chuyển hóa thành công cụ quán tưởng, tu tập, biến hóa thành các tân biểu-tượng-giáo của Phật giáo khi giáo hóa quần chúng

Trong kinh Tăng chi bộ - Tăng nhất A hàm - bộ kinh được cho là kết tập muộn nhất trong bốn bộ A hàm, còn khẳng định việc cúng tế sẽ đưa đến quả dị Thục sinh lên cõi trời. Điều đó chính là cơ sở để lý luận để đưa việc cúng tế sẽ còn tiến xa hơn khi biến chính tế lễ thành phương pháp gieo trồng căn lành, hóa giải nghiệp chướng trong Đại thừa Phật giáo sau này.

Sự khác biệt này cho thấy trí tuệ uyển chuyển của Đức Phật. Ngài phản đối việc mê tín, cầu xin để thay đổi nhân quả, vì điều đó trái với giáo lý cốt lõi. Tuy nhiên, Ngài lại khuyến khích các nghi lễ như một phương tiện để duy trì trật tự xã hội và hướng con người đến những giá trị đạo đức cao hơn.

​4. Trong kinh Trung A Hàm, chỉ ra rằng điều cốt lõi của tu tập thành công là ở chỗ phương pháp có đúng đắn hay không, còn ước muốn không có quan hệ gì. Và ví dụ như "người muốn lấy sữa bò nhưng mà vắt sữa từ sừng bò thì không bao giờ có sữa". Tuy nhiên, ở trong kinh Trung A Hàm, Phật lại nói người nào bố thí nhưng trong lòng không mong muốn được phúc báo thì cũng không được phúc báo (điểm này cũng lại mâu thuẫn về mặt hình thức với bố thí ba-la-mật của Phật giáo Đại thừa)

Kinh Trung A hàm số 173. ‘Kinh Phù Di’ Thưa Tôn giả Phù-di, có Sa-môn Phạm chí đi đến chỗ tôi và nói với tôi rằng: ‘Này Vương đồng tử, người nào có ước nguyện tu hành phạm hạnh một cách chân chính, người ấy tất sẽ chứng quả. Nếu người nào không có ước nguyện, hoặc vừa có uớc nguyện, vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính, người ấy tất sẽ chứng quả’. Tôn sư của Tôn giả Phù-di có ý gì, có thuyết gì chăng?” Tôn giả Phù-di nói: “Này Vương đồng tử, tôi chưa được đích thân nghe Đức Thế Tôn nói, cũng chưa được nghe các vị phạm hạnh nói lại, nhưng này Vương đồng tử, có thể Đức Thế Tôn đã nói như vầy, ‘Người nào có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính, người ấy tất sẽ chứng quả. Nếu người nào không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính, người ấy tất sẽ chứng quả’”.... Đức Thế Tôn nói: “Này Phù-di, nếu có Sa-môn, Phạm chí tà kiến, tà kiến định, người ấy có ước nguyện nhưng tu hành phạm hạnh một cách tà vạy, nên chắc chắn không thể chứng quả. Không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện, vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách tà vạy, thì chắc chắn không thể chứng quả. Vì sao vậy? Vì tìm cầu quả vị một cách tà vạy, là không đúng đường lối. “Này Phù-di, ví như có người muốn lấy sữa mà lại vắt nơi sừng con bò thì chắc chắn không lấy được sữa. Dù không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, nếu người ấy muốn lấy sữa mà lại vắt nơi sừng con bò thì chắc chắn không lấy được sữa. Vì sao vậy? Vì tìm cầu sữa một cách tà vạy, tức là vắt nơi sừng con bò vậy. Cũng vậy, này Phù-di, nếu có Sa-môn, Phạm chí tà kiến, tà kiến định, người ấy có ước nguyện nhưng tu hành phạm hạnh một cách tà vạy nên chắc chắn không thể chứng quả. Không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện, hoặc vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách tà vạy thì chắc chắn không thể chứng quả. Vì sao vậy? Vì tìm cầu quả vị một cách tà vạy, là không đúng đường lối. “Này Phù-di, nếu có Sa-môn, Phạm chí chính kiến, chính kiến định, người ấy có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính nên tất sẽ chứng quả. Không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện, vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính, thì tất sẽ chứng quả. Vì sao vậy? Vì tìm cầu quả vị một cách chân chính, là đúng đường lối. Này Phù-di, ví như có người muốn lấy sữa, cho bò ăn uống no nê rồi vắt sữa nơi vú nó thì chắc chắn lấy được sữa. Dù không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện, vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, nếu người ấy muốn lấy sữa, cho bò ăn no nê rồi vắt nơi vú nó, thì chắc chắn lấy được sữa. Vì sao vậy? Vì tìm cầu sữa một cách chân chính, là vắt nơi vú con bò. Cũng vậy, này Phù-di, nếu có Sa-môn, Phạm chí chính kiến, chính kiến định, người ấy có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính, chắc chắn sẽ chứng quả. Nếu không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chính thì chắc chắn sẽ chứng quả. Vì sao vậy? Vì tìm cầu quả vị một cách chân chính, là đúng đường lối...

Kinh Trung A hàm số 160. ‘Kinh A Lan Na’ Bấy giờ, Tôn sư A-lan-na thuyết pháp cho đệ tử: “Này các Ma-nạp ma, thực là kỳ lạ, thực là kỳ lạ? Sanh mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm hạnh, vì đã sanh ra thì không thể không chết. Thế nhưng người đời nay đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ, việc thiện, việc tốt lại không thực hành, cũng không cầu mong”.

155. ‘Kinh Tu Đạt Đa’ Đức Thế Tôn bảo: “Này Cư sĩ, dù bố thí những thức thô xấu, hay bố thí những thức mỹ diệu, thì đều có quả báo. Nhưng này Cư sĩ, nếu bố thí những thức thô xấu, không tín mà bố thí, không cố tâm bố thí, không tự tay bố thí, không tự mình đến bố thí, không tư duy mà bố thí, không do tín mà bố thí, không quán nghiệp và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng như thế, tâm không muốn được nhà đẹp, không muốn được xe đẹp, không muốn áo chăn đẹp, không muốn được đồ ăn thức uống ngon, không muốn được ngũ dục công đức tốt. Vì sao? Vì không chí tâm mà hành bố thí. Này Cư sĩ, nên biết rằng: Sẽ thọ báo đúng như thế. “Này Cư sĩ, nếu bố thí những thức thô xấu nhưng có tín mà bố thí, có tâm bố thí, tự tay bố thí, tự mình đến bố thí, tư duy mà bố thí, do tín mà bố thí, quán nghiệp và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng như thế, là do tâm muốn được nhà đẹp, muốn được xe đẹp, muốn được áo chăn đẹp, muốn được đồ ăn thức uống ngon, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Vì chí tâm mà bố thí. Này Cư sĩ, nên biết rằng: Sẽ thọ báo đúng như thế. “Này Cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, không tín mà bố thí, không cố tâm bố thí, không tự tay bố thí, không tự mình đến bố thí, không tư duy mà bố thí, không do tín mà bố thí, không quán nghiệp và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng như thế, tâm không muốn được nhà đẹp, không muốn được xe đẹp, không muốn áo chăn đẹp, không muốn được đồ ăn thức uống ngon, không muốn được ngũ dục công đức tốt. Vì sao? Vì không chí tâm mà hành bố thí. Này Cư sĩ, nên biết rằng: Sẽ thọ báo đúng như thế. “Này Cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, lại có tín mà bố thí, tự tay bố thí, tự mình đến bố thí, tư duy mà bố thí, do tín mà bố thí, quán nghiệp và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng như thế, là do tâm muốn được nhà đẹp, muốn được xe đẹp, muốn áo chăn đẹp, muốn đồ ăn thức uống ngon, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Vì chí tâm mà bố thí. Này Cư sĩ, nên biết rằng: Sẽ thọ báo đúng như thế.

Tăng Chi 3, trang (Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn? Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc (về kết quả), bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Tôi sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy cho các Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, những trú xứ, đèn đuốc. Ở đây, này Sàriputta, có hạng người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiện ở Bốn thiên vương. Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui trạng thái này.Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí"... bố thí không với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí", nhưng bố thí với không ý nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên"... Hay là người bố thí không với ý nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không nên là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn...", bố thí không với ý nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không nên là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí"... Vị ấy bố thí không với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên"... Vị ấy bố thí, không với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên". nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Và đối với Sa-môn hay Bà-la-môn, vị ấy bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc.

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Kinh Phù Di nói về thứ đệ quyết định giữa phương pháp và mong cầu trong việc đạt được mục đích. Kinh nhấn mạnh phương pháp đúng là yếu tố cốt lõi để đạt được kết quả, ví dụ như phải vắt sữa từ vú bò chứ không phải sừng. Nội dung kinh chỉ ra rằng ước nguyện mà không đi theo con đường đúng đắn thì vô nghĩa.

Kinh Tu Đạt Đa nói về chỉnh thể đầy đủ nhân - duyên trong việc đạt được mục đích. Kinh giải thích: sau khi đã có hành động đúng, tâm ý là yếu tố cuối cùng quyết định chất lượng quả báo. Một người bố thí không chí thành, không quán chiếu nhân quả thì sẽ không nhận được phước báo viên mãn.

Đối với tinh thần Bố thí ba la mật, thực ra ta hoàn toàn có thể suy rộng ra từ kinh Tu Đạt Đa. Muốn nhận quả báo nào thì cần tác ý mong cầu tương ứng. Mà quả vị Tối thượng thừa - Phật đạo là như như bất động, vô khứ vô lai, vô vi vô tác, thì tất nhiên muốn hồi hướng về vô thượng Bồ đề, thì nên khởi tâm tam luân không tịch mà bá thí.

​5. Phật mô tả A La Hán là những vị đã làm chủ được tâm. Nhưng ngài Mục Kiền Liên lại bị buồn ngủ không tiếp tục ngồi nghe giảng được.

Tăng Chi 3, trang 228 (Do không đoạn tận sáu pháp, này Tỷ-kheo, không có thể chứng được quả A-la-hán. Thế nào là sáu? Hôn trầm, thụy miên, trạo cử, hối quá, bất tín, phóng dật. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận sáu pháp này, không có thể chứng được quả A-la-hán.)

Kinh Trường A hàm số 20. Kinh A ma trú: Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy thành tựu Thánh giới, được các căn của Thánh, ăn biết vừa đủ; đầu hôm cuối hôm, tinh tấn tỉnh giác. Lại lúc ban ngày, hoặc đi hoặc dừng thường niệm nhất tâm, trừ các ấm cái. Vị ấy, vào khoảng đầu hôm, hoặc đi hoặc ngồi, thường niệm nhất tâm, trừ các ấm cái. Cho đến giữa đêm, nằm nghiêng hông phải, tưởng niệm sẽ trỗi dậy, đặt ý tưởng vào ánh sáng, tâm không loạn tưởng. Đến lúc cuối đêm, liền dậy tư duy, hoặc đi hoặc ngồi trừ các ấm cái. Tỳ-kheo có Thánh giới như vậy đầy đủ, được các căn bậc Thánh, ăn uống biết đủ, đầu hôm cuối hôm, tinh cần tỉnh giác, thường niệm nhất tâm, không có loạn tưởng ... Thế nào là nhất tâm? Tỳ-kheo như vậy hoặc tản bộ, hoặc ra vào, hoặc quay nhìn hai bên, co duỗi, cúi ngước, cầm y bát, tiếp nhận ẩm thực, hoặc tả hữu tiện lợi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc ngồi hoặc đứng, nói năng hay im lặng, vào bất cứ lúc nào, thường niệm nhất tâm, không mất oai nghi. Đó là nhất tâm. Cũng như một người đi giữa đám đông, hoặc đi ở trước, ở giữa hay ở cuối thường an ổn, không có điều sợ hãi. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy,... cho đến, nói năng im lặng, thường niệm nhất tâm, không buồn không sợ. (...) Tỳ-kheo có Thánh giới như vậy, được các căn bậc Thánh, ăn thì biết đủ, đầu hôm, cuối hôm, tinh cần tỉnh thức, thường niệm nhất tâm, không có thác loạn. Thích ở nơi vắng, dưới gốc cây, trong bãi tha ma, hoặc trong hang núi, hoặc ở đất trống hay trong chỗ đống phân; đến giờ khất thực, lại rửa tay chân, đặt yên y bát, ngồi kiết già, ngay người chánh ý, buộc chặt niệm trước mắt. Trừ bỏ xan tham, tâm không đeo theo; diệt tâm sân hận, không có oán kết, tâm trú thanh tĩnh, thường giữ lòng từ; trừ dẹp ngủ nghỉ, buộc tưởng nơi ánh sáng, niệm không thác loạn; đoạn trừ trạo hý, tâm không khuấy động, nội tâm an tịnh, diệt tâm trạo hý; đoạn trừ nghi hoặc, đã vượt lưới nghi, tâm chuyên nhất ở nơi pháp thiện. Cũng như

Kinh Trường A hàm Số 17. “Kinh Thanh Tịnh” “Chư hiền, có Tỳ-kheo là lậu tận A-la-hán, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu; với chánh trí đã giải thoát, vị ấy không làm chín việc. Những gì là chín? Một là không giết. Hai là không lấy trộm. Ba là không dâm. Bốn là không nói dối. Năm, không xả đạo. Sáu, không bị dục chi phối. Bảy, không bị sân chi phối. Tám, không bị sợ hãi chi phối. Chín, không bị nghi chi phối. Chư hiền, ấy là vị lậu tận A-la-hán đã làm xong điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch kết sử của hữu, chánh trí giải thoát, xa lìa chín sự”

Kinh Trung A hàm số 83. ‘Kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thụy Miên’ “Này Đại Mục-kiền-liên, ngươi đang đắm trước thụy miên. Này Đại Mục-kiền-liên, ngươi đang đắm trước thụy miên.” Tôn giả Đại Mục-kiền-liên bạch Thế Tôn: “Quả thật vậy, bạch Đức Thế Tôn”. Phật lại nói: “Này Đại Mục-kiền-liên, nếu như sở tướng nào gây buồn ngủ, ngươi chớ tu tập tướng ấy và cũng đừng phát triển nó. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy theo giáo pháp đã được nghe, tùy theo đó mà thọ trì, quảng bá và tụng đọc. Như vậy thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy theo giáo pháp đã được nghe, tùy theo đó mà thọ trì, rồi diễn rộng ra cho người khác nghe. Như vậy thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy theo giáo pháp đã được nghe, tùy theo đó mà thọ trì, tâm suy niệm, tâm suy tư. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy dùng hai tay day hai lỗ tai. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy lấy nước lạnh rửa mặt và dội ướt thân thể. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy đi ra ngoài thất, xem khắp bốn phương, ngước nhìn các vì sao. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy đi ra ngoài thất, đến khoảng đất trống phía đầu thất mà kinh hành, thủ hộ các căn, tâm an trụ bên trong, khởi hậu tiền tưởng. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy bỏ con đường đang kinh hành, đến đầu con đường ấy, trải Ni-sư-đàn, ngồi kiết già. Như vậy, thụy miên mới có thể được diệt trừ. “Nếu thụy miên của ngươi không diệt trừ, thì này Đại Mục-kiền-liên, hãy trở vào thất, gấp tư y Ưu-đa-la-tăng, trải trên giường, gấp Tăng-già-lê làm gối, nằm hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, khởi minh tưởng, lập chính niệm chính trí và luôn luôn khởi ý tưởng muốn trỗi dậy. Này Đại Mục-kiền-liên, đừng ham lạc thú giường nệm, đừng ham lạc thú ngủ nghỉ, đừng ham tài lợi, đừng đắm trước danh dự”.

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Sự mâu thuẫn này có thể bắt nguồn tự sự sai biệt trong quan điểm của các bộ phái. Có bộ phái triệt để cho rằng A la hán là siêu nhân, tâm luôn tỉnh thức. Tuy nhiên cũng có bộ phái cho rằng, ngoài việc trừ dứt tham sân si ra, thì A la hán cũng chịu giới hạn bởi thân vật chất, mệt mỏi vẫn phải ngủ như người thường (Nhưng giấc ngủ của A la hán vẫn khác người thường, ...). Trường A hàm do Pháp tạng bộ kết tập, Trung A hàm do Hữu bộ kết tập. 2 quan điểm trong kinh liên hệ đến quan điểm A tỳ đạt ma từng bộ phái như thế nào cần xác minh thêm.

​6. Phật khẳng định đời này giàu có vì đời trước bố thí, đời này nghèo khổ vì không chịu bố thí... Tuy nhiên đồng thời, Phật lại khẳng định có những trường hợp làm thiện lại vẫn bị tái sinh vào địa ngục.

Kinh Trương A hàm số 2. Kinh Du hành: "... Phật bảo A-nan:
“Chúng Tăng còn có điều gì cần ở Ta nữa? Nếu có ai tự mình nói: Ta duy trì chúng Tăng, ta nhiếp hộ chúng Tăng, thì người ấy nên có lời di giáo cho chúng Tăng. Như Lai không nói: Ta duy trì chúng Tăng. Ta nhiếp hộ chúng Tăng. Vậy tại sao Ta lại phải có lời di giáo cho chúng Tăng? Này A-nan, những pháp Ta đã giảng thuyết, trong cũng như ngoài đều đã hoàn tất. Ta không bao giờ tự xưng sở kiến thông đạt. Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi. Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện còn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Không suy niệm tất cả tưởng, khi nhập vô tưởng định, thân an ổn, không có não hoạn. Vì vậy, A-nan, hãy tự mình thắp sáng; thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác. Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi pháp, chớ nương tựa nơi khác... Này A-nan, sau khi Ta diệt độ, nếu có ai có thể tu hành pháp này, người đó là đệ tử chân thật của Ta, là bậc nhất hữu học.”"

Kinh Trung A hàm số 170. ‘Kinh Anh Vũ’ “Bạch Cù-đàm, do nhân gì, do duyên gì, chúng sanh kia đều thọ thân người mà có người cao kẻ thấp, có người đẹp kẻ xấu. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm, tôi thấy có kẻ sống lâu, người chết yểu; có kẻ nhiều bệnh, người ít bệnh; lại thấy có kẻ thân hình đoan chính, có người không đoan chính; lại thấy có kẻ có oai đức, người không oai đức; lại thấy có kẻ sanh nhằm dòng dõi tôn quý, có người sanh nhằm dòng dõi ti tiện; lại thấy có kẻ giàu có, có người nghèo hèn; lại thấy có kẻ thiện trí, có người ác trí”. Đức Thế Tôn trả lời: “Chúng sanh kia do nơi hành nghiệp của chính mình, nhân bởi nghiệp mà thọ báo, duyên vào nghiệp, y nơi nghiệp, tùy theo nơi nghiệp xứ có cao thấp mà chúng sanh có tốt đẹp hay không tốt đẹp”.
Xem thêm tiểu nghiệp phân biệt kinh

(Tạp No. 1047). Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Có nhân nghiệp ác, nhân tâm ác, nhân kiến ác. Nếu chúng sanh nào có nhân như vậy, khi thân hoại mạng chung chắc chắn rơi vào địa ngục, đường ác. Giống như ném hạt châu tròn vào hư không, sẽ rơi lại xuống đất lăn đi, không đình trú tại một chỗ. Cũng vậy, nhân nghiệp ác, nhân tâm ác, nhân kiến ác, khi thân hoại mạng chung chắc sẽ rơi vào địa ngục không có chỗ đình trú.

Kinh Trung A hàm số 171 phân biệt Đại nghiệp, Kinh Trung a hàm số 174, 175 Kinh Thọ Pháp: đều nói về những trường hợp dễ làm người ta sinh ra tà kiến như: làm nghiệp thiện nhưng vào địa ngục, hiện tại thọ khổ pháp nhưng tương lai thọ lạc pháp, ... Nói lên sự phức tạp của mối quan hệ nhân quả trong quá trình sinh tử của mỗi con người.

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Điều này là do sự khác biệt giữa Kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa, kinh phương tiện

Thật sự thì nhân quả rất phức tạp chứ không chỉ đơn thuần là làm gì thì sẽ nhận được lại như vậy. Nó còn liên quan đến dư báo, nhân duyên hòa hợp tạo ra quả báo, cộng nghiệp, ...

​7. Trong kinh Phạm chí Đà Chiên, Phật khuyên ông ta không nên vì lý do phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên vân vân mà làm ác vì "nghiệp của ai làm thì mới phải tự chịu". Tuy nhiên, trong kinh Hành Dục, thì loại người vừa kiếm ăn phi Pháp vừa không biết cúng dường các sa môn, phạm chí là loại tối hạ liệt, còn người làm ăn phi pháp nhưng biết cúng dường thì tuy không phải tối thắng nhưng trong việc xếp thứ tự thì ít hạ liệt hơn.

Kinh Trung A hàm số 27. ‘Kinh Phạm Chí Đà Chiên’ “Này Đà-nhiên, ông không tinh tấn lại phạm vào các giới cấm. Dựa thế vào vua để dối gạt Phạm chí, Cư sĩ; dựa thế Phạm chí, Cư sĩ để dối gạt vua”. Phạm chí Đà-nhiên trả lời rằng: “Xá-lê Tử, nên biết, nay tôi còn sống tại gia, lấy gia nghiệp làm bổn phận. Tôi còn phải lo cho mình được an ổn, cung cấp cha mẹ, săn sóc vợ con, cung cấp nô tỳ, phải nộp thuế cho vua, thờ tự thiên thần, cúng tế tổ tiên, và còn phải bố thí cho các Sa-môn, Phạm chí để sau này còn được sanh lên các cõi trời, mong được trường thọ, được quả báo an lạc. Xá-lê Tử, các việc ấy không thể nào bỏ đi, một mực theo đúng pháp”. Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử bảo rằng: “Này Đà-nhiên, nay tôi hỏi ông, tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Phạm chí Đà-nhiên, ông nghĩ thế nào? Nếu có người vì cha mẹ mà tạo các việc ác; vì tạo ác nên khi thân hoại mạng chung, đi thẳng vào cõi ác, sanh vào địa ngục. Sanh vào địa ngục rồi, khi ngục tốt bắt trói hành hạ rất khổ sở, người ấy hướng về phía ngục tốt mà nói thế này: ‘Ngục tốt, hãy biết cho, chớ hành hạ tôi. Vì sao thế? Tôi đã vì cha mẹ tạo các nghiệp ác’. Thế nào, Đà-nhiên, người ấy có thể nào từ ngục tốt mà thoát khỏi sự khổ sở ấy không?” Phạm chí Đà-nhiên trả lời rằng: “Không thể”. 

Kinh Trung A hàm số 126. ‘Kinh Hành Dục’ Đức Thế Tôn dạy: “Này Cư sĩ, ở đời gồm có mười hạng người hành dục. Những gì là mười? “Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời sống lâu. Đó là một hạng người hành dục. “Lại nữa, này Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành dục. “Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành dục. “Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành dục. “Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu bị hệ lụy, đắm nhiễm, không thấy được tai hoạn, không biết đến sự xuất yếu mà tiêu dùng. Đó là một hạng người hành dục. “Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết được sự xuất yếu mà tiêu dùng. Đó là một hạng người hành dục. “Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là thấp hèn nhất. “Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối thượng. “Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết sự xuất yếu khi tiêu dùng, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu”.

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Kinh Phạm Chí Đà Chiên khẳng định nguyên tắc bất di bất dịch: nghiệp của ai thì người đó tự chịu. Hành vi bất thiện sẽ dẫn đến quả báo xấu, không có lý do nào có thể xóa bỏ được.

Kinh Hành Dục đưa ra sự so sánh tương đối giữa các hành vi. Một người làm ăn phi pháp nhưng biết bố thí thì vẫn tốt hơn người chỉ biết làm ác mà không làm việc thiện nào.

Kết luận: Bố thí (nghiệp thiện) không thể xóa bỏ nghiệp ác, nhưng vẫn tạo ra phúc báo riêng. Hai kinh văn bổ sung cho nhau, một bên nhấn mạnh tính tuyệt đối của nhân quả cá nhân, một bên chỉ ra sự phức tạp và tương đối của các hành vi trong đời sống. 

​8. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Du hành, Phật dạy các tỷ khiêu sau khi Phật nhập diệt phải lấy Giới làm thầy, hoặc lấy pháp và luật làm thầy. Tuy nhiên, trong kinh Cù Mặc Mục Liên lại khẳng định lấy Pháp làm thầy, chứ không phải lấy Tùng giải thoát (lấy luật) làm thầy.

Kinh Di giáo: "Tỳ-kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt, nên tôn trọng, cung kính đối với giới luật, như ở chỗ tối tăm được thấy ánh sáng; như người nghèo được của báu. Nên biết rằng giới luật là thầy của các ông, cũng như ta đây còn trụ thế, không hề khác biệt."

KINH LÀNG SĀMA (SĀMAGĀMA SUTTA) (M.ii, 243): Sau khi Nigaṇṭha Nātaputta từ trần, trong chúng đệ tử

của giáo phái này xảy ra tranh chấp, tàn hại lẫn nhau. Sadi Cunda an cư tại chỗ ấy, chứng kiến sự đổ vỡ của phái Ni-kiền-tử, trở về bạch Tôn giả Ānanda. Tôn giả Ānanda bạch Phật, làm thế nào để sau khi Thế Tôn nhập diệt sẽ không có tình trạng tranh chấp như vậy trong Tăng chúng. Đức Thế Tôn hỏi Tôn giả Ānanda, có hai vị Tỷ-kheo nào tranh chấp về những pháp Ngài đã dạy, như bốn niệm xứ, bốn chánh cần… cho đến Thánh đạo tám ngành? Tôn giả Ānanda xác nhận là không bao giờ có cuộc tranh chấp dù chỉ giữa hai Tỷ-kheo về các pháp ấy. Nhưng Tôn giả lo rằng sẽ có tranh chấp về nếp sống và về giới luật…. Đức Thế Tôn dạy rằng, đó là những điều không đáng kể. Chính sự tranh chấp về pháp hoặc về đường lối tu hành mới đưa đến bất an, đau khổ cho loài trời, loài người. 

(Tạp No. 254). Bạch Thế Tôn, nếu có người nào dựa vào một ít tín tâm mà bảo là ly dục giải thoát thì điều này không đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si đó mới gọi là chân thật ly dục giải thoát. 

“Nếu có người nào lại chỉ dựa vào một ít việc trì giới mà bảo rằng ta được lìa nhuế giải thoát, thì điều này cũng không đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si đó mới gọi là chân thật giải thoát. “Nếu có người nào lại chỉ dựa vào sự tu tập để có lợi dưỡng mà bảo là đã viễn ly giải thoát, thì điều này cũng không đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si đó mới gọi là chân thật xa lìa được giải thoát”

Kinh Trung A hàm số 145. ‘Kinh Cù Mặc Mục Kiền Liên’ “Này Vũ Thế, chúng tôi không nương tựa nơi người, nhưng nương tựa nơi pháp. Này Vũ Thế, nếu chúng tôi nương tựa nơi thôn ấp mà sống, vào ngày mười lăm là ngày thuyết Tùng giải thoát, cùng tập họp ngồi tại một chỗ. Nếu có Tỳ-kheo nào hiểu biết pháp, chúng tôi thỉnh vị ấy thuyết pháp cho chúng tôi. Nếu chúng Tăng ấy được thanh tịnh, chúng tôi hoan hỷ phụng hành pháp mà Tỳ-kheo ấy đã nói. Nếu chúng Tăng ấy không thanh tịnh, tùy theo pháp được nói, chúng tôi khuyên dạy làm cho đúng.”

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Sự khác biệt này có thể đến từ việc khác biệt trong các bộ chúng sau khi Phật nhập diệt. Các bộ chúng trọng về trì luật (mà đại diện là Ca diếp, Ưu ba li) chủ trương "dĩ giới vi sư", "những gì Phật đã chế thì không bỏ bớt, những gì Phật chưa chế thì chưa chế thêm", ... Tuy quan điểm này có phần máy móc và có thể chưa thật sự hợp với chân ý của Phật, song đó cũng là một quan điểm tốt để lưu trữ lại tinh thần sinh hoạt nguyên thủy, sự đoàn kết và ổn định, thanh tịnh và vô nhiễm của Tăng già. Ngược lại Quan điểm trọng Pháp (mà A nan là đại diện) gần với chân tinh thần của Phật giáo, nhưng nếu bỏ qua việc trì luật thì khó mà có thể duy trì tăng đoàn.

​8. Trong kinh Trường A Hàm, khi Phật còn tại thế, Phật đã truyền y của mình cho Ca Diếp, và ví Ca Diếp như thái tử chưa làm lễ quán đỉnh nhận ngôi (tức là chỉ định Ca diếp làm người kế thừa). Tuy nhiên, trong kinh Trung A Hàm, A Nan lại khẳng định Tăng đoàn không lấy bất cứ cá nhân nào làm nơi y chỉ mà chỉ y chỉ vào Pháp.

(Tạp No. 1144, 1143 tương tự). Phật liền tự tay trao y phấn tảo trao cho ta. Ta liền dâng Tăng-già-lê cho Phật. Rồi lần lượt giáo thọ như vậy trong vòng tám ngày, ta đã học pháp lãnh thọ nơi khất thực cho đến ngày thứ chín, ta đạt đến Vô học. Này A-nan, nếu có ai hỏi thẳng: ‘Ai là Pháp tử của Thế Tôn từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, được giao phó gia tài Phật pháp và các thiền giải thoát tam-muội chánh thọ?’ Thì nên đáp đó là ta. Như vậy là nói chân chánh. “Giống như người con trưởng thứ nhất của Chuyển luân Thánh vương sẽ bằng phép quán đảnh mà ngồi lên vương vị hưởng thụ ngũ dục của vua, không phải dùng phương tiện khổ tự nhiên hưởng được. Ta cũng như vậy, là Pháp tử của Phật từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, đắc pháp và pháp tài khác như thiền định, giải thoát, tam-muội chánh thọ, không phải dùng phương tiện khổ, mà tự nhiên được. “Thí như voi báu của Chuyển luân Thánh vương cao bảy, tám khuỷu tay mà một lá đa-la có thể che rợp. Cũng vậy, sáu thần thông trí thành tựu của ta có thể che rợp. Nếu đối với cảnh giới thần thông và trí chứng, có người nào nghi hoặc, ta có thể vì họ phân biệt, ký thuyết về thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận, tác chứng trí thông. Nếu có người nào nghi hoặc, ta có thể vì họ phân biệt, ký thuyết, khiến họ được quyết định”

(No. 1142). Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sống lâu nơi trú xứ sàng tọa A-luyện-nhã, râu tóc ra dài, mặc y rách vá đến chỗ Phật. Lúc đó Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số đại chúng vây quanh. Bấy giờ, các Tỳ-kheo thấy Ma-ha Ca-diếp từ xa đi lại và sau khi thấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp rồi, họ khởi tâm khinh mạn rằng: “Tỳ-kheo này là ai mà y phục tồi tàn đến đây mà dung nghi không có đến đây mà y phục dương dương?” Khi đó Thế Tôn biết được tâm niệm của các Tỳ-kheo bảo Ma-ha Ca-diếp: “Đến đây Ca-diếp! Hãy ngồi nơi phân nửa chỗ ngồi này. Nay Ta rốt cuộc biết ai xuất gia trước. Thầy ư? Ta ư?” Các Tỳ-kheo sanh lòng sợ hãi, chân lông dựng đứng lên, nói với nhau: “Lạ thay, Tôn giả! Tôn giả ấy là Ma-ha Ca-diếp có đức độ lớn, thần lực lớn là đệ tử của Đại Sư, được mời ngồi nửa tòa”. Khi ấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp chắp tay bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, Phật là Thầy con. Con là đệ tử”. 

Phật bảo Ca-diếp: “Thật vậy! Thật vậy! Ta là Đại Sư. Ông là đệ tử. Bây giờ ông hãy ngồi xuống, trên chỗ ngồi đã dọn sẵn”. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp cúi đầu lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên. Bấy giờ Thế Tôn muốn cảnh tỉnh các Tỳ-kheo nên đem những công đức rộng lớn thù thắng của Ca-diếp đã sở đắc như mình, vì đại chúng hiện tiền mà bảo các Tỳ-kheo: “Ta đã lìa dục pháp ác bất thiện, có giác, có quán, thành tựu và trụ Sơ thiền, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc ngày đêm. Ma-ha Ca-diếp cũng lại như Ta, lìa dục, pháp ác bất thiện, cho đến thành tựu và trụ Sơ thiền hoặc ngày hoặc đêm hoặc ngày đêm”....

Kinh Trung A hàm số 145. ‘Kinh Cù Mặc Mục Kiền Liên’ Một thời, sau khi Đức Phật Bát-Niết-bàn chưa bao lâu, Tôn giả A-nan du hóa tại thành Vương Xá... “Bạch A-nan, có Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm chăng?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, hoàn toàn không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Thế Tôn được.” Đại thần Vũ Thế, nước Ma-kiệt-đà lại hỏi: “Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Thế Tôn được. Nhưng có Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập nên và nói rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa của các Tỳ-kheo’, và vị ấy nay là nơi nương tựa của các người?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, hoàn toàn không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn, Bậc Tri Kiến, được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chính Giác trong lúc tại thế lập lên và nói rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ và ngày nay đang là chỗ nương tựa cho chúng tôi.” Đại thần Vũ Thế, nước Ma-kiệt-đà lại hỏi: “Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm, cũng không một Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo và ngày nay đang là chỗ nương tựa cho các Tỳ-kheo’ và vị ấy nay là nơi nương tựa cho các người. Nhưng có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp và bái lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’, và vị ấy nay đang là nơi nương tựa của các người?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, cũng không có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ và vị ấy nay đang là chỗ nương tựa cho chúng tôi.” Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi: “Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm, cũng không một Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay đang là nơi nương tựa cho các người. Cũng không Tỳ-kheo nào được Tăng chúng hòa hiệp bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay đang là nơi nương tựa cho các người. Này A-nan, nếu vậy các người hiện tại không có ai để nương tựa, nhưng cùng sống hòa hiệp, không tranh chấp, an ổn, đồng nhất một giáo pháp, cùng hiệp nhất như nước với sữa, khoái lạc du hành như trong lúc Sa-môn Cù-đàm tại thế chăng?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, ông đừng nói rằng chúng tôi không có ai để nương tựa. Vì sao vậy? Thật sự chúng tôi có nơi nương tựa.” Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà đáp rằng: “Bạch A-nan, những điều được nói trước và sau sao lại không phù hợp nhau? A-nan vừa nói như vầy: ‘Không một Tỳ-kheo nào sánh ngang Thế Tôn, cũng không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn, Bậc Tri Kiến, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chính Giác trong lúc tại thế lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho chúng tôi. Cũng không có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay là nơi nương tựa cho chúng tôi’. Nhưng này A-nan, do nhân gì, duyên gì, nay lại nói rằng: ‘Thật sự chúng tôi có nơi nương tựa’?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, chúng tôi không nương tựa nơi người, nhưng nương tựa nơi pháp. Này Vũ Thế, nếu chúng tôi nương tựa nơi thôn ấp mà sống, vào ngày mười lăm là ngày thuyết Tùng giải thoát, cùng tập họp ngồi tại một chỗ. Nếu có Tỳ-kheo nào hiểu biết pháp, chúng tôi thỉnh vị ấy thuyết pháp cho chúng tôi. Nếu chúng Tăng ấy được thanh tịnh, chúng tôi hoan hỷ phụng hành pháp mà Tỳ-kheo ấy đã nói. Nếu chúng Tăng ấy không thanh tịnh, tùy theo pháp được nói, chúng tôi khuyên dạy làm cho đúng.” Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà bạch rằng: “Bạch A-nan, không phải các ngài khuyên dạy làm cho đúng, nhưng chính là pháp khuyên dạy làm cho đúng. Như vậy, A-nan, một ít pháp hay có nhiều pháp thảy đều có thể được tồn tại lâu dài, và như vậy A-nan, các ngài sống hòa hiệp không tranh chấp, an ổn, đồng nhất một giáo pháp, cùng hiệp nhất như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Sa-môn Cù-đàm tại thế.” Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi: “Này A-nan, có vị nào đáng tôn kính chăng?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, có vị xứng đáng được tôn kính.” Vũ Thế bạch rằng: “Bạch A-nan, những điều được nói sao lại trước sau không phù hợp nhau? A-nan vừa nói như vầy: ‘Không một Tỳ-kheo nào sánh ngang Thế Tôn, cũng không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn trong lúc tại thế lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi. Cũng không có một Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng: ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để nay vị ấy đang là nơi nương tựa cho chúng tôi. Nhưng này A-nan, do nhân gì, duyên gì nay lại nói rằng: ‘Có vị xứng đáng được tôn kính’?” Tôn giả A-nan đáp: “Này Vũ Thế, Thế Tôn, bậc Tri kiến, là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chính Giác, đã có dạy về mười pháp đáng tôn kính. Nếu chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào có mười pháp này, chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, lễ sự Tỳ-kheo ấy.” “Những gì là mười? “Này Vũ Thế, Tỳ-kheo tu tập cấm giới, thủ hộ Tùng giải thoát, lại khéo thu nhiếp oai nghi lễ tiết, thấy tội lỗi nhỏ nhặt cũng thường sanh lòng lo sợ, thọ trì học giới. Này Vũ Thế, nếu chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích cực hành trì tăng thượng giới thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy. “Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo học rộng nghe nhiều, ghi nhớ không quên, tích lũy sự bác văn, đối với những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, cụ túc thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh, đối với các pháp như vậy, học rộng nghe nhiều, tụng thuộc cho đến hằng nghìn, chuyên ý tư duy quán sát, thấy rõ, hiểu sâu. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích cực đa văn thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy. “Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo ấy xứng đáng là thiện tri thức, xứng đáng là thiện bằng hữu, xứng đáng là người bạn đồng hành tốt. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào thật sự xứng đáng là thiện tri thức, thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.

(Tạp No. 36). Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Hãy an trú nơi hòn đảo chính mình, an trú nơi nương tựa chính mình, an trú nơi hòn đảo pháp, an trú nơi nương tựa pháp, chứ đừng an trú nơi hòn đảo nào khác, hay nương tựa nơi nào khác. “Tỳ-kheo hãy quán sát chân chánh, an trú nơi hòn đảo chính mình, an trú nơi nương tựa chính mình, an trú nơi hòn đảo pháp, an trú nơi nương tựa pháp, chứ đừng an trú nơi hòn đảo nào khác, hay nơi nương tựa nào khác

Kinh Trường A hàm Số 2, “Kinh Du Hành”: Phật bảo A-nan: “Chúng Tăng còn có điều gì cần ở Ta nữa? Nếu có ai tự mình nói: ‘Ta duy trì chúng Tăng, ta nhiếp hộ chúng Tăng’, thì người ấy nên có lời di giáo cho chúng Tăng. Như Lai không nói: ‘Ta duy trì chúng Tăng, Ta nhiếp hộ chúng Tăng’. Vậy tại sao Ta lại phải có lời di giáo cho chúng Tăng? Này A-nan, những pháp Ta đã giảng thuyết trong cũng như ngoài đều đã hoàn tất. Ta không bao giờ tự xưng sở kiến thông đạt. Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi. Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện còn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Không suy niệm tất cả tưởng khi nhập vô tưởng định, thân an ổn, không có não hoạn. Vì vậy, A-nan, hãy tự mình thắp sáng, thắp sáng nơi Pháp, chớ thắp sáng nơi khác; hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi Pháp, chớ nương tựa nơi khác. Thế nào là ‘Hãy tự mình thắp sáng, thắp sáng nơi pháp, chớ thắp sáng nơi khác; hãy tự nương tựa mình, nương tựa pháp, chớ nương tựa nơi khác’? Này A-nan, Tỳ-kheo quán nội thân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán ngoại thân; quán nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán ý, quán pháp cũng vậy. Này A-nan, đó gọi là ‘Hãy tự thắp sáng; thắp sáng nơi Pháp, chớ thắp sáng nơi khác; hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi Pháp, chớ nương tựa nơi khác...’. Này A-nan, sau khi Ta diệt độ, nếu có ai có thể tu hành pháp này, người đó là đệ tử chân thật của Ta, là bậc nhất hữu học” 

Kinh Trung A hàm số 145. ‘Kinh Cù Mặc Mục Kiền Liên’ “Này Vũ Thế, chúng tôi không nương tựa nơi người, nhưng nương tựa nơi pháp. Này Vũ Thế, nếu chúng tôi nương tựa nơi thôn ấp mà sống, vào ngày mười lăm là ngày thuyết Tùng giải thoát, cùng tập họp ngồi tại một chỗ. Nếu có Tỳ-kheo nào hiểu biết pháp, chúng tôi thỉnh vị ấy thuyết pháp cho chúng tôi. Nếu chúng Tăng ấy được thanh tịnh, chúng tôi hoan hỷ phụng hành pháp mà Tỳ-kheo ấy đã nói. Nếu chúng Tăng ấy không thanh tịnh, tùy theo pháp được nói, chúng tôi khuyên dạy làm cho đúng.”

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Thực sự thì sự tôn trọng của Phật với Ca diếp vô cùng đặc biệt. Sinh thời ngài Mục kiền liên và Xá lợi phất cũng được Phật coi như thái tử chưa kế thừa vương vị, nhưng văn trong kinh không có sự trọng thị đặc biệt như đối với ngài Ca diếp (chưa kể 2 vị còn nhập diệt trước Phật). Và đó chính là tiền đề để ngài Ca diếp lãnh đạo Tăng đoàn sau khi Phật nhập diệt.

Tuy nhiên song song với sự lãnh đạo đó, chắc hẳn trong Tăng đoàn bấy giờ đã xuất hiện tư tưởng so sánh vị trí của ngài Ca diếp với Phật, khiến cho các kinh về việc y pháp bất y nhân lần lượt được kết tập. Chú ý rằng, ngoài kinh do Phật nói thể hiện quan điểm này, còn có các kinh do Đệ tử Phật nói. Có thể đó chính là sự phản ánh sự phân chia ý kiến trong tăng đoàn bấy giờ đối với ngôi vị "Pháp chủ"  Tăng già

​9. Phật tán thán tỷ khiêu sống nơi rừng núi, ở trong rừng núi dẫu có lười biếng thì cũng chứng đắc điều khó chứng đắc, nhưng đồng thời Phật khẳng định: một vị tỉ khiêu uế nhiễm thì có ở trong rừng cũng không ai tôn kính; Phật sống trong rừng núi không phải là để tìm giải thoát, cũng không phải là ngài chưa chứng đắc cho nên phải vào trong rừng núi ở. Mặt khác nơi rừng núi vắng vẻ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của một vị tỷ khiêu chưa chứng đắc lậu tận

(Tạp No. 1251). Phật bảo Na-đề-ca: “Ta thấy bên cạnh tụ lạc có tinh xá, có Tỳ-kheo tọa thiền. Thấy rồi Ta tự nghĩ, những người trong tụ lạc này, hoặc Sa-di, qua lại gây tiếng động ồn ào, làm rối loạn, gây chướng ngại thiền tư cho Tôn giả này khiến cho tỉnh giấc chánh thọ, cản trở ước muốn đến chỗ chưa đến, muốn đạt chỗ chưa đạt, muốn chứng chỗ chưa chứng. Na-đề-ca, Ta không hài lòng Tỳ-kheo ấy sống ở tinh xá cạnh tụ lạc. “Na-đề-ca, Ta thấy Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh, nằm ngửa mà than thở. Thấy rồi Ta tự nghĩ, nay Tỳ-kheo này sau khi ngủ dậy, sẽ tư niệm với ý tưởng về rừng vắng nhàn tĩnh. Này Na-đề-ca, Ta cũng không hài Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh như vậy. “Này Na-đề-ca, Ta lại thấy Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh, ngồi lắc lư mà ngủ gật. Thấy rồi, Ta tự nghĩ nay Tỳ-kheo này sau khi thức dậy, sẽ chứng đắc định chưa từng chứng đắc; do tâm định mà được giải thoát. Cho nên Na-đề-ca, Ta cũng không hài Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh như vậy. “Này Na-đề-ca, Ta lại thấy Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh, ngồi ngay thẳng nhập chánh thọ. Thấy rồi, Ta tự nghĩ, nay Tỳ-kheo này, nếu chưa giải thoát, sẽ nhanh chóng được giải thoát. Nếu đã giải thoát, sẽ khiến tự phòng hộ, không để thoái thất. Na-đề-ca, Ta sẽ hài lòng Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh như vậy. “Này Na-đề-ca, Ta lại thấy Tỳ-kheo sống trong rừng vắng nhàn tĩnh. Tỳ-kheo ấy về sau rời xa chỗ rừng vắng, tập xả giường, ngọa cụ, lại trở về tụ lạc nhận lấy giường, ngọa cụ. Này Na-đề-ca, Ta cũng không hài lòng Tỳ-kheo trở lại thôn xóm như vậy. “Lại nữa này Na-đề-ca, Ta thấy Tỳ-kheo sống ở tinh xá nơi thôn xóm đức nhiều nổi tiếng, được các thứ tài lợi, y phục, ẩm thực, thuốc men đủ thứ. Tỳ-kheo ấy sau đó bỏ hết lợi dưỡng, làng xóm, sàng tọa, đến an nghỉ trong rừng vắng nhàn tĩnh. Na-đề-ca, Ta rất hài lòng Tỳ-kheo tập xả lợi dưỡng, chòm xóm, giường nằm, ngọa cụ như vậy mà sống trong rừng vắng nhàn tĩnh. Na-đề-ca, Tỳ-kheo nên học như vậy”

 (Tạp No. 1260). “Thời quá khứ, có một con chồn mèo đói khát, gầy yếu, rình con chuột ở trong hang. Nếu chuột ra thì nó sẽ bắt lấy mà ăn. Một hôm, chuột ra khỏi hang rong chơi, chú mèo kia liền chộp nuốt nhanh. Thân chuột nhỏ, bị nuốt sống vào bụng. Khi vào bụng rồi, nó ăn nội tạng mèo. Bị ăn nội tạng, mèo mê cuồng chạy lung tung khắp nơi, từ nhà trống đến gò mả, không biết dừng lại nơi nào dần dần cho đến chết. Cũng vậy, Tỳ-kheo, có người ngu si nương nơi làng xóm mà sống, sáng sớm đắp y, ôm bát, vào thôn khất thực mà không khéo hộ thân, không giữ các căn, tâm không cột niệm, thấy các nữ nhân, khởi tư duy bất chánh, liền nắm bắt tướng sắc mà phát khởi lòng tham dục. Khi tham dục đã phát khởi, lửa dục cháy bừng, thiêu đốt thân tâm. Khi thân tâm bị thiêu đốt, tâm dong ruổi cuồng phóng, không thích ở tinh xá, không thích nơi rừng vắng, không thích dưới bóng cây; bị tâm ác bất thiện ăn vào pháp bên trong mà xả giới, thoái thất. Người ngu này lâu dài chịu khổ đau, không lợi lạc. Cho nên, Tỳ-kheo cần phải học như vậy: Khéo hộ thân mình, giữ gìn các căn môn, buộc tâm chánh niệm mà vào thôn khất thực. Cần phải học như vậy”

Kinh Trung Bộ số 4. Kinh sợ hãi và khiếp đảm: "—Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.

—Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.

... Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: “Nay Sa-môn Gotama chưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy sự hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai.

—Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! … Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng"

Kinh Trung bộ số 5. Kinh không uế nhiễm: "Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào, các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này còn được thấy và nghe là chưa được diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy là vị sống trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng, sống hạnh khất thực, thứ lớp khất thực từng nhà một, theo hạnh mang phấn tảo y, mặc y phục thô xấu, thời các đồng phạm hạnh không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả này còn được thấy và còn được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới dục của Tỷ-kheo chưa được diệt trừ. 

...Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào mà các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này được thấy và được nghe là đã diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy sống gần làng mạc, chấp nhận biệt thỉnh thực, mang y người gia chủ cúng, thời các đồng phạm hạnh cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường vị Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả này được thấy và được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục của vị Tỷ-kheo ấy đã được diệt trừ."

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Đức Phật tán thán việc sống ở nơi vắng vẻ vì nó giúp hành giả tránh xa sự ồn ào của thế tục, thuận lợi cho việc thiền định và làm cho tâm an tịnh. Ngài nói ngay cả một Tỳ-kheo "lười biếng" cũng có thể "chứng đắc điều khó chứng đắc", ngụ ý rằng môi trường thanh tịnh có ảnh hưởng rất lớn đến sự tu tập, giúp tâm dễ định hơn.

Tuy nhiên, Phật cũng cảnh báo rằng môi trường chỉ là điều kiện bên ngoài. Nếu một Tỳ-kheo có tâm uế nhiễm (còn tham, sân, si), thì dù có sống trong rừng cũng không được ai tôn kính. Lời dạy này nhấn mạnh tâm thức bên trong mới là yếu tố quyết định sự thanh tịnh và đạo hạnh, chứ không phải nơi chốn.

Như vậy rừng núi chỉ là trợ duyên, là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Đây là cơ sở để Phật giáo sau này chuyển từ du cư, độc cư, ẩn cư sang sống định cư trong chùa chiền, tịnh xá.

​10. Phật khẳng định ngài không phải là nhà huyễn thuật, không hứa hẹn truyền dạy các phép thuật, nhưng cũng đồng thời khẳng định thần thông là một trong ba cách giáo hóa của Phật (Trung A Hàm). Trong một số trường hợp Phật cấm dùng Thần Thông, nhưng trong một số trường hợp Phật lại khuyến học Thần Thông

Trường A hàm Số 15. “Kinh A Nậu Di”: Phật nói với Phạm chí: “Điều mà Thiện Tú kia nói, Ta biết ông không chấp nhận. Xưa, một thời, Ta đang ở trên Tập pháp đường, bên bờ hồ Di hầu thuộc Tỳ-da-li; khi ấy Thiện Tú này đi đến chỗ Ta, nói với Ta rằng: ‘Như Lai xa lạ với con. Con không theo Như Lai tu phạm hạnh nữa’. Ta khi ấy nói rằng: ‘Ngươi vì sao nói rằng không theo Như Lai tu phạm hạnh nữa, vì Như Lai xa lạ với ngươi?’ Thiện Tú đáp: ‘Như Lai không hiện thần túc biến hóa cho con thấy’”. “Ta khi ấy nói rằng: ‘Ta có mời ngươi đến trong pháp Ta tịnh tu phạm hạnh, Ta sẽ hiện thần túc cho ngươi thấy không? Sao lại nói: ‘Như Lai hãy hiện thần túc biến hóa cho con thấy, con mới tu phạm hạnh?’ Khi ấy Thiện Tú trả lời Ta rằng: ‘Không, bạch Thế Tôn’”. Phật nói với Thiện Tú: “Ta cũng không nói với ngươi: ‘Ngươi hãy ở trong Pháp của Ta mà tịnh tu phạm hạnh, Ta sẽ hiện thần túc biến hóa cho thấy.’ Ngươi cũng không nói: ‘Hãy hiện thần túc cho con thấy, con sẽ tu phạm hạnh’. Thế nào Thiện Tú, theo ý ngươi, Như Lai có khả năng hiện thần thông hay không có khả năng? Pháp mà Ta giảng thuyết, Pháp ấy có khả năng dẫn đến xuất ly, tận cùng biên tế của khổ chăng”.

Kinh Trường A hàm số 24. Kinh Kiên Cố: Khi ấy Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng: Con đối với pháp thượng nhơn không có gì nghi ngờ. Nhưng thành Na-lan-đà này, quốc thổ thịnh vượng, nhân dân đông đúc, nếu ở đó mà hiện thần túc sẽ ích lợi cho nhiều người. Phật và Chúng tăng khéo hoằng hóa đạo. Phật nói với Kiên Cố: Ta không bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân cho Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên giấu kín. Nếu có sai lầm, nên bày tỏ. Vì sao vậy? Có ba loại thần túc. Những gì là ba? Một, thần túc; hai, quán sát tâm người; ba, giáo giới. (Phật lần lượt phân tích ba loại Thần túc, trong đó chỉ có giáo giới là được mọi người tán thán và không bị phỉ báng)

Kinh Trung A hàm số 143. ‘Kinh Thương Ca La’ “Có ba thị hiện là, như ý túc thị hiện, chiêm niệm thị hiện, giáo huấn thị hiện. “Ở đây, nếu có một Sa-môn, Phạm chí có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần, đối với như ý túc, tâm được tự tại, hành vô lượng công đức của như ý túc như vầy; nghĩa là phân một làm thành nhiều, hợp nhiều làm thành một, một thì trụ trên một, được biết, được thấy; không bị trở ngại bởi vách đá, cũng như đi trong hư không; chìm xuống đất như chìm xuống nước, đi trên nước như đi trên đất; ngồi xếp kiết già mà bay trên không như chim bay liệng; với mặt trời và mặt trăng này vốn có đại như ý túc, đại phước hựu, đại oai thần mà có thể đưa tay bắt nắm, thân cao đến trời Phạm thiên. Này Ma-nạp, đó là thị hiện bằng như ý túc. “Này Ma-nạp, thế nào là chiêm niệm thị hiện? Hoặc có một Sa-môn, Phạm chí do nơi tướng trạng của người khác mà chiêm đoán được ý tưởng của họ, rằng: ‘Nó có ý nghĩ như thế này, nó có ý nghĩ như thế kia, nó thật sự có ý nghĩ’; vô lượng chiêm đoán thì không ít chiêm đoán, nhưng tất cả thảy đều chắc thật, chứ không phải là những giả thiết viễn vông. Hoặc giả không do nơi tướng trạng của người khác để đoán biết ý tưởng của họ, nhưng do nghe tiếng của chư Thiên và loài phi nhân mà đoán biết được ý tưởng của người khác rằng: ‘Nó có ý nghĩ như thế này, nó có ý nghĩ như thế kia, thật sự nó có ý nghĩ như vậy’ vô lượng chiêm đoán, không ít chiêm đoán, nhưng tất cả thảy đều chắc thật, chứ không phải là những giả thiết viễn vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác để đoán biết ý tưởng của họ, cũng không nghe tiếng của chư Thiên và các loài phi nhân, nhưng do tâm niệm của người khác, tâm tư của người khác, ngôn thuyết của người khác. Sau khi nghe tiếng rồi đoán biết được ý tưởng của người khác rằng: ‘Nó có ý tưởng như thế này, nó có ý tưởng như thế kia, nó thật sự có ý tưởng như vậy’ vô lương chiêm nghiệm đoán, không ít chiêm đoán, nhưng tất cả thảy đều chắc thật, chứ không phải là những giả thuyết viễn vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác để đoán biết ý tưởng của người khác, cũng không nghe tiếng của chư Thiên và loài phi nhân để đoán biết ý tưởng của người khác, cũng không do nơi tâm niệm của người khác, nhưng do nơi tâm tư, nơi ngôn thuyết của người khác để sau khi nghe rồi, đoán biết ý tưởng của người khác, nhưng do thấy người khác nhập vào định không giác không quán, sau khi thấy bèn nghĩ rằng: ‘Như Hiền giả này thì không có niệm, không có tư, sở nguyện như ý. Hiền giả kia ra khỏi định này với niệm như vậy. Vị ấy ra khỏi định này sẽ có tâm niệm như vậy, như vậy’. Người này cũng đoán biết việc quá khứ, cũng đoán biết việc tương lai, cũng đoán biết việc hiện tại, những điều được làm từ lâu, những điều được nói từ lâu, cũng đoán biết những nơi yên tĩnh, sống nơi yên tĩnh, cũng đoán biết tất cả pháp tâm và tâm sở hữu. Đó gọi là thiện bằng sự chiêm niệm. “Này Ma-nạp, thế nào là giáo huấn thị hiện? Ở đây có một Sa-môn, Phạm chí tự hành đạo như vậy, tích như vậy, và sau khi hành đạo như vậy, tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Rồi vị ấy giảng thuyết lại cho người khác rằng: ‘Ta tự hành đạo như vậy, tích như vậy, và sau khi hành đạo như vậy, tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Rồi người đó cũng tự hành đạo như vậy, tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Rồi người đó cũng lại thuyết giảng cho người khác. Cứ như vậy... lần lượt truyền đi cho đến vô lượng trăm ngàn. Này Ma-nạp, đó gọi là sự thị hiện bằng giáo huấn."

Kinh Trường A hàm số 20. Kinh A ma trú: (Dùng quỷ thần trù yếm) “Ma-nạp, như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí vẫn hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống tà mạng, kêu gọi quỷ thần, hoặc đuổi đi, hoặc bảo dừng, các thứ ếm đảo, vô số phương thuật khiến người sợ hãi, có thể tụ có thể tán, có thể khổ có thể vui, lại có thể an thai trục thai, cũng có thể chú ếm người khiến làm lừa ngựa, cũng có thể khiến người đui mù câm ngọng, hiện bày các mánh khóe, chấp tay hướng về mặt trời mặt trăng, làm các khổ hạnh để cầu lợi. Ai vào trong pháp Ta, không có những việc ấy. “Ma-nạp, như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí mà hành các pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: chú bệnh cho người, hoặc tụng ma thuật ác, hoặc tụng chú thuật lành, hoặc làm thầy thuốc, châm cứu, thuốc thang, liệu trị các thứ bệnh. Ai vào pháp Ta, không có những việc ấy”  “Ma-nạp, như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí nhưng hành các pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: hoặc chú nước, chú lửa, hoặc chú ma quỷ, hoặc tụng chú Sát-lỵ, hoặc tụng chú chim, hoặc tụng chú chi tiết, hoặc bùa chú trấn nhà trấn cửa, hoặc bùa chú giải trừ lửa cháy, chuột gặm, hoặc tụng kinh thư ly biệt sanh tử, hoặc đọc sách đoán mộng, hoặc xem tướng tay tướng mặt, hoặc đọc sách tất cả âm. Ai vào pháp Ta, không có việc ấy.”

(Tạp No. 494). “Nếu có Tỳ-kheo nào tu tập thiền tứ đạt được thần thông, tâm được tự tại, muốn biến cây khô này thành đất thì sẽ thành đất liền. Vì sao? Vì trong cây khô này có địa giới. Cho nên Tỳ-kheo có sức thần thông, tâm muốn tạo ra đất, tức thì thành đất không khác. Nếu có Tỳ-kheo nào đạt được sức thần thông, tự tại như ý, mà muốn khiến cây này thành nước, lửa, gió, vàng, bạc v.v... tất cả đều thành tựu không khác. Vì sao? Vì cây khô này có thủy giới. Cho nên, thiền tứ được sức thần thông, tự tại như ý; nếu muốn khiến cây khô này thành vàng, tức thì thành vàng không khác và những vật khác cũng đều thành tựu như vậy. Vì sao? Vì cây khô này có các giới. Cho nên, Tỳ-kheo thiền tứ, được sức thần thông, tự tại như ý, nến muốn làm thành các vật khác thì cũng đều thành tựu không khác. Tỳ-kheo nên biết, khi Tỳ-kheo thiền tứ, cảnh giới thần thông không thể nghĩ bàn. Cho nên, Tỳ-kheo phải tinh cần thiền tứ, học các thần thông

Kinh Trường A hàm số 19. “Kinh Đại Hội”: (Phật dùng thần chú để điều phục chư Thiên và quỷ thần) Bấy giờ, Thế Tôn muốn hàng phục tâm huyễn ngụy hư dối của họ nên kết chú rằng: “Ma câu lâu la ma câu lâu la tỳ lâu la tỳ lâu la, chiên đà na, gia ma thế trí, ca, ni diên đậu, ni diên đậu, ba na lỗ, ô hô nô nô chủ, đề bà tô mộ, Ma-đầu la, chi đa la tư na, càn đạp ba, na la chủ, xà ni sa, thi ha, vô liên đà la, tỷ ba mật đa la, thọ trần đà la, na lư ni kha, thăng phù lâu, thâu chi bà tích bà.” Như vậy, các vua càn-đạp-bà và la-sát đều có thần túc, hình mạo, sắc tượng, với tâm hoan hỷ đi đến chúng Tỳ-kheo trong khu rừng. Bấy giờ, Thế Tôn lại kết chú: “A hê, na đà sắt, na đầu, Tỳ-xá-ly, sa ha, đái xoa xà, bà đề, đề đầu lại trá, đế bà sa ha, nhã lị da, gia tỳ la, nhiếp ba na già, a đà già ma, thiên đề già, y la bà đà, ma ha na già, tỳ ma na già đa, đà già đà dư, na già la xà, bà ha sa ha, xoa kỳ đề, bà đề la đế, bà đề la đế, tỳ mai đại tích thiễm, tỳ ha tứ, bà nanh, a bà bà tứ, chất đa la, tốc hòa ni na, cầu tứ đa, a bà do, na già la trừ, a tứ, tu bạt la, tát đế nô, a già, phật đà sái, thất la-nanh, bà da, ưu la đầu bà diên lâu, tố bàn nậu, phật đầu, xá la nậu, già loại lâu”. Rồi Thế Tôn lại kết chú cho A-tu-la: “Kỳ đà, bạt xà, ha đế, tam vật đệ, a tu la, a thất đà, bà diên địa, bà tam ba tứ, y đệ a đà, đề bà ma, thiên địa, già lê diệu, ma ha bí ma, a tu la, đà na bí la đà, bệ ma chất đâu lâu, tu chất đế lệ, bà la ha lê, vô di liên na bà, xá lê a tế, bạt lê, phất đa la na, tát bệ, tát lâu da na na mê, tát na mê đế, bà lê, tế như, la da bạt đâu lâu, y ha am bà la mê, tam ma do y, đà na, bạt đà nhã, tỷ khâu na, tam di thế, nê bạt”. Rồi Thế Tôn lại kết chú cho Chư thiên: “A phù, đề bà, bế lê, hê bệ, đề dự, bà do, đa đà nậu bạt lâu nậu bạt lâu ni, thế đế tô di, da xá a đầu, di đa la bà, già la na di bà a lã đề bà, ma thiên thê dữ, đà xà đề xá, già dư, tát bệ, na-nan đa la bà bạt na, y địa bàn đại, thù địa ban na bàn đại, da xá ti nậu, mộ đà bà na, a hê kiền đại, tỳ khâu na, bà vị đệ, bà ni...” 

Kinh Trung A hàm số 78. ‘Kinh Phạm Thiên Thỉnh Phật’ Lúc ấy, Đức Phật nghĩ rằng: “Ta hãy như vậy mà hóa hiện như ý túc, phóng hào quang cực sáng, chiếu rọi cùng khắp cõi trời Phạm thiên, rồi ẩn hình trong đó, khiến cho Phạm thiên và quyến thuộc của Phạm thiên chỉ nghe tiếng mà không thấy hình Ta”. Nghĩ xong, Đức Thế Tôn hiện như ý túc như vậy, phóng hào quang cực sáng, chiếu rọi khắp cõi trời Phạm thiên. Phạm thiên và quyến thuộc chỉ nghe tiếng mà không thấy hình Ngài. Bấy giờ Phạm thiên và quyến thuộc mới nghĩ rằng: “Sa-môn Cù-đàm thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Vì sao? Vì đã phóng hào quang chiếu sáng, chiếu rọi khắp cả trời Phạm thiên, rồi tự ẩn hình trong đó, khiến cho chúng ta chỉ được nghe tiếng mà không thấy hình”.

Kinh Trường A hàm Số 2, “Kinh Du Hành”: “Ta nhớ xưa kia, Ta từng qua lại trong chúng Sát-lỵ, cùng họ nói năng, ngồi đứng, chẳng biết đã bao nhiêu lần. Nhờ sức thiền định tinh tấn mà nơi nào Ta hiện đến, hễ họ có sắc đẹp thì sắc Ta đẹp hơn. Họ có tiếng hay thì tiếng Ta hay hơn. Họ từ giã Ta mà đi, nhưng Ta không từ giã họ. Điều họ nói được, Ta cũng nói được. Điều họ không thể nói được, Ta cũng nói được. Ta thường thuyết pháp cho họ, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ, rồi biến mất khỏi nơi đó, mà họ không biết Ta là trời hay là người. Như thế cho đến, Ta từng qua lại trong chúng Phạm thiên không biết là bao nhiêu lần để thuyết pháp cho họ, mà họ cũng đều chẳng biết Ta là ai”

Ta dễ dàng gặp thêm nhiều câu chuyện về dùng thần thông để giáo hóa một cách thực tế trong Phật chuyện, ta còn thấy các câu chuyện Phật dùng thần thông để nhiếp phục người khác như các trường hợp: Phật hiện thần thông khiến cho tướng cướp Angulimālạ không đuổi kịp mình (kinh Trung Bộ số 86), thể hiện thiên nhĩ thông nghe câu chuyện trong đền thờ thần lửa khiến Bà-la-môn Brāradvāj nể phục (Kinh Trung Bộ số 75), Đức Phật thu phục Da xá, ...

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Đức Phật có thể dùng hoặc không dùng thần thông để gây lòng tin để giáo hóa, cũng là một sự lựa chọn tùy căn cơ (giống như phần thụ ký đã nói). Đối với đệ tử là tỷ khiêu, ngài hạn chế, thậm chí cấm sử dụng thần thông, không hiện thần thông cho họ xem để học tập trung vào học thánh đạo giải thoát. Tuy nhiên đối với các chúng tại gia, quỷ thần, ... Phật có hiện một số thần thông, uy lực, chú ngữ để học phát sinh hoan hỷ, tín tâm, tán thán, từ đó thân cận Tam bảo.

Về việc học thần thông, Phật khuyến khích học thần thông như một kết quả của thiền định, và là phương tiện để hóa độ chúng sinh. Còn các ma thuật hạ cấp như hô thần gọi quỷ, dọa nạt người khác, ... thì Phật cũng không khuyến khích

11. Có thể lấy sắc, lấy thanh để thấy Như lai không?!

Trong kinh Kim Cương Đức Phật khẳng định ai lấy sắc, lấy thanh để thấy như lai thì là người hành tà đạo, Tuy nhiên trong Kinh Trung a hàm Phật lại nói "phải do hai sự kiện để tìm hiểu Như Lai, một là sắc được biết bởi mắt và hai là tiếng được nghe bởi tai." Mặt khác: Đại Thiên cho rằng "đạo nhân thanh cố khởi". Cũng như vậy Kinh Lăng nghiêm cho rằng "thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn"

Kinh Trung A hàm số 186. ‘Kinh Cầu giải’ Thế Tôn bảo rằng: “Duyên nơi ý của mình mà không biết như thật về tâm trí của người khác, phải do hai sự kiện để tìm hiểu Như Lai, một là sắc được biết bởi mắt và hai là tiếng được nghe bởi tai.

Kinh Lăng nghiêm quyển 6: "Phật xuất Sa Bà Giới. Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn. Dục thủ tam ma đề, thực dĩ văn trung nhập."

Kinh kim cương Phẩm 26: Pháp thân phi tướng:

​"Nhược dĩ sắc kiến ngã,

Dĩ âm thanh cầu ngã,

Thị nhân hành tà đạo,

Bất năng kiến Như Lai."

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Kinh Kim cương nói về Pháp thân Phật vô hình vô tướng vô tác vô vi. Như vậy thì có muốn dùng thanh, sắc mà thấy cũng khó mà thấy được

Tuy nhiên trước khi nói đến câu chuyện xa vời của Pháp thân thì cần nhận thức về ông Phật thực tế (sắc), đang nói giáo pháp cho ta nghe đã (thanh)! Ý kiến của Đại Thiên (hành giả có khuynh hướng Đại thừa) và kinh Lăng nghiêm (kinh Đại thừa), đều chấp nhận việc dùng âm thanh làm phương tiện để vào đạo.

Như vậy đây là sự khác biệt giữa phương tiện và cứu cánh trong con đường "thấy Như lai".

12. Nên cúng dàng các tỷ khiêu phàm phu, phạm giới, ... hay không?

(Tạp No. 280). “Nếu có người hỏi các ông: ‘Những hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào không đáng cung kính, lễ bái, thừa sự, cúng dường?’ Thì các ông nên đáp là: ‘Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, mắt thấy sắc mà chưa lìa được tham, chưa lìa được dục, chưa lìa ái, chưa lìa khao khát, chưa lìa niệm, nội tâm không tịch tịnh, việc làm phi pháp, hành vi thô tháo. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy, thì những hạng Tỳ-kheo như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, thừa sự, cúng dường’. Nói như vậy xong, lại có người khác hỏi: ‘Vì sao những Sa-môn này không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’ Các ông nên trả lời: ‘Chúng tôi mắt thấy sắc mà không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm không tịch tịnh và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn kia, khi mắt thấy sắc cũng không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm họ không tịch tịnh, hành động phi pháp, hành vi thô tháo và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Chúng tôi tìm sự sai biệt ở đây, nhưng không thấy họ khác biệt chúng tôi chỗ nào. Vì vậy, chúng tôi không cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự cúng dường các hạng Sa-môn, Bà-la-môn như vậy’. “Nếu có người hỏi: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’ Các ông nên trả lời: ‘Nếu những vị ấy mắt thấy sắc mà lìa dục, lìa tham, lìa ái, lìa khao khát, lìa niệm, trong tâm tịch tịnh, không hành động phi pháp, làm những hạnh bình đẳng, việc làm không lôi thôi và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy, thì những hạng Sa-môn, Bà-la-môn như vậy đáng được cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường’. “Nếu lại hỏi: ‘Vì sao những Sa-môn, Bà-la-môn này được cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’ Các ông nên trả lời: ‘Chúng tôi mắt thấy sắc mà không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm không tịch tịnh, hành động phi pháp, hành vi thô tháo và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa khao khát, lìa niệm, nội tâm tịch tịnh, hành động đúng pháp, hành động không thô tháo; và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Ở đây, chúng tôi tìm sự khác biệt và thấy và những vị ấy có chỗ khác chúng tôi. Vì thấy có sự sai biệt, nên chúng tôi cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn ấy’. “Đã trả lời như vậy, nếu có người lại hỏi: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn này có hành vi gì, có hình mạo thế nào và có dấu hiệu nào để khiến cho các ông biết những Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham, hướng đến điều phục tham; lìa sân, hướng đến điều phục lìa sân; lìa si, hướng đến điều phục lìa si?’ Các ông nên trả lời rằng: ‘Chúng tôi thấy Sa-môn, Bà-la-môn này có những biểu hiện như thế này: Ở trong rừng vắng, dưới bóng cây, giường thấp, hoặc nơi nệm cỏ, tu hạnh viễn ly, xa lìa người nữ, ưa gần người độc cư để cùng thiền định tư duy; nếu ở những chỗ đó mà không có sắc được thấy bởi mắt có thể sanh tâm tham đắm; và không có tiếng được nghe bởi tai có thể sanh tâm tham đắm; mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, có thể sanh tâm tham đắm. Những Sa-môn, Bà-la-môn này có hành vi như vậy, có hình mạo như vậy và có dấu hiệu như vậy để khiến cho các chúng tôi biết những Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham, hướng đến điều phục tham; lìa sân, hướng đến điều phục lìa sân; lìa si, hướng đến điều phục lìa si”

Tăng Chi 4, trang 127 (Có thể, này Gia chủ, Ông nghĩ: "Có thể Bà-la-môn Velàma là một người nào khác, vị đã bố thí một cách rộng lớn như vậy". Này Gia chủ, chớ có nghĩ như vậy. Chính lúc ấy, Ta là Bà-la-môn Velàma, chính Ta đã bố thí rộng lớn ấy. Nhưng này Gia chủ, khi bố thí ấy được cho, không có một ai xứng đáng để nhận bố thí. Không có một ai làm cho thanh tịnh bố thí ấy. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người chánh kiến, bố thí này lớn hơn quả lớn kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho 100 người chánh kiến, và có ai bố thí cho một vị Nhất lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 người Nhất lai, và có ai bố thí cho một vị Bất lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia….

Kinh Trung A hàm số 180. Kinh Cù Đàm Di: “Này A-nan, trong thời tương lai, có Tỳ-kheo thuộc loại danh tính, khoác áo cà-sa mà không tinh tấn, vị ấy đã không tinh tấn, không tinh cần mà vẫn được bố thí vì có ở trong chúng, duyên nơi chúng, ở trên chúng, nhân nơi chúng, Ta nói lúc bấy giờ thí chủ sẽ được phúc vô lượng không thể đếm, không thể kể, được thiện, được lạc; huống nữa là bố thí cho Tỳ-kheo thành tựu hành sự, thành tựu trừ sự, thành tựu cả hành sự và trừ sự, thành tựu chất trực, thành tựu nhu nhuyến, thành tựu cả chất trực và nhu nhuyến, thành tựu nhẫn, thành tựu lạc, thành tựu cả nhẫn và lạc, thành tựu tương ưng, thành tựu kinh kỹ, thành tựu cả tương ưng và kinh kỹ, thành tựu oai nghi, thành tựu hành lai du, thành tựu cả oai nghi và hành lai du, thành tựu tín, thành tựu giới, thành tựu đa văn, thành tựu thí, thành tựu tuệ, thành tựu cả tín, giới, đa văn, thí, tuệ. Như vậy gọi là loại bố thí thứ bảy cho Tăng chúng, sẽ được đại phúc, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.

“Này A-nan, thế nào gọi là mười bốn loại bố thí riêng cho từng người sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, quả báo rộng lớn? “Thiện nam tử hay thiện nữ có tín nhân bố thí cho Đức Như Lai, bố thí cho Duyên giác, bố thí cho A-la-hán, bố thí cho A-la-hán hướng, bố thí cho A-na-hàm, bố thí cho A-na-hàm hướng, bố thí cho Tư-đà-hàm, bố thí cho Tư-đà-hàm hướng, bố thí cho Tu-đà-hoàn, bố thí cho Tu-đà-hoàn hướng, bố thí cho Tiên nhân ngoại đạo ly dục, bố thí cho người tinh tấn, bố thí cho người không tinh tấn, bố thí cho súc sinh”.

Xưa vua Đường Thái Tông bạch Thầy Huyền Trang rằng: "Trẫm có ý nguyện trai Tăng cúng dàng, ngặt nỗi thấy chư Tăng nhiều phần ít đức hạnh, như thế thì làm sao?". Thầy Huyền Trang đáp: "Núi Côn có ngọc lẫn cùng sỏi đá, sông Lệ sinh vàng, chẳng phải hoà với cát bùn sao? Đất đá, cây cối chạm trổ thành Phật , nếu kính lạy thì phúc đức sinh; đồng, chì, thiếc tạo nên tượng cốt, nếu hủy hoại thì có tội. Rồng dùng để tế lễ tuy làm bằng đất, chưa thể làm mưa, nhưng muốn cầu mưa phải cầu rồng đất. Phàm Tăng tuy không thể ban phúc nhưng muốn tu phúc thì phải kính phàm Tăng.". Vua Thái Tông hoảng hốt bạch rằng: "Từ nay về sau, Trẫm dù thấy một vị Sa di nhỏ cũng kính như Phật vậy!"

Lý giải sự "mâu thuẫn":

Có bố thí, có tín tâm thì chắc chắn bố thí đó được thanh tịnh và có quả báo. Trong kinh Cù đàm di có nói về có bốn loại bố thí và chỉ ba loại được thanh tịnh. Như vậy thì chỉ cần chủ, hoặc người thụ nhận hoặc cả 2 thanh tịnh thì bố thí này đều như pháp, được quả báo tốt đẹp (chỉ trừ trường hợp cả 2 đều ô nhiễm thì không có phúc báo). Như vậy thì, bố thí cho tỉ khiêu, dù họ phạm giới cũng đều có phúc.

Tuy nhiên, về thứ tự phúc điền thì đương nhiên các vị bố thí cho các vị tỉ khiêu thanh tịnh sẽ thu được quả báo lớn hơn so với các vị còn nhiễm ô. Đây là điểu không phải bàn cãi. Điều này được minh xác lại trong thứ tự cúng dàng trong kinh Cù Đàm Di. Bá thí cho người phạm giới thì chỉ ưu thắng hơn bố thí cho súc sinh một chút mà thôi, và còn hạ liệt hơn cúng cho người ngoại đạo (nhưng đã ly dục)

Tuy nhiên, nhìn nhận trên góc đọc giữa cúng dàng cho cá nhân và cho tập thể thì lại khác. Cúng dàng cho cá nhân tỉ khiêu thì không thể so sánh với cúng dàng đoàn thể Tăng già được. Trong kinh Vu lan, hay Ngạ quỷ mẫu sự (Tiểu bộ kinh), Phật nói: "muốn cho cứu được mạng người/ phải nhờ uy lực của mười phương Tăng". Tuy phàm tăng chỉ là phàm phu, còn cấu nhiễm, nhưng vẫn có giới thể, giới tướng của tỉ khiêu. Nếu họ không phạm Ba la di thì họ vẫn dự vào hàng Tăng bảo. Vì vậy, ở điểm này, ta lại thấy rằng, vẫn cần cúng dàng cho cả phàm phu tăng, và trong một vài trường hợp cúng cho phàm phu tăng còn có phúc báo hơn cả thánh tăng!

13. Quả vị A La Hán và quả vị Phật là hai hay là một??

Kinh Đa Giới (số 115) trong Trung Bộ Kinh khẳng định rằng có những sự kiện không thể xảy ra, và một trong số đó là:

1. "Một nữ nhân không thể trở thành Chuyển Luân Thánh Vương. Một nữ nhân không thể thành Phạm Thiên. Một nữ nhân không thể thành Ma Vương. Một nữ nhân không thể thành Đế Thích. Một nữ nhân không thể thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.".

Trong khi các kinh khác, như Kinh Đại Bát Niết Bàn, lại ghi nhận nhiều vị Tỳ-kheo Ni đã chứng đắc quả vị A-la-hán, một sự kiện tương đương với việc "đoạn trừ các lậu hoặc" và "đắc thắng trí ngay trong hiện tại", như được đề cập trong các kinh khác. 

2. Một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương không thể xuất hiện cùng lúc với một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương khác. Tương tự, một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không thể xuất hiện cùng lúc với một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác khác.

Tuy nhiên trong tăng đoàn của Phật, cùng một lúc có thể xuất hiện đến 500 vị A la hán, hoặc 1.250 vị A la hán. 

Từ những điểm trên có thể khẳng định, quả vị Phật và quả vị A la hán trong Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo bộ phái là 2 chứ không phải là một

Đăng nhận xét

0 Nhận xét