Sự cần thiết phải cập nhật quan điểm về tôn giáo, tín ngưỡng để làm giàu đẹp thêm chủ nghĩa Marx
Sự cần thiết
Chủ nghĩa Marx không đặt trọng tâm ở tôn giáo.
Một ví dụ rất thực tiễn nhưng mà lại rất thuyết phục là như thế này: khoảng những năm 2020 - 2025, trên mạng xã hội nổi lên một số hiện tượng mạng như Phạm Hữu Giang, hay Vũ Khắc Ngọc. Các cá nhân này nổi lên nhờ kiến thức chuyên môn về môn học của mình, bằng lối nói hóm hỉnh thu hút giới trẻ, ... Tuy nhiên, Sau một thời gian ngắn cả 2 đều dính ... vạ miệng khi lấn sân sang vấn đề không thuộc chuyên môn của mình, có những phát ngôn sai lầm và ấu trĩ về vấn đề chính trị, lịch sử, quân sự, quản lý ngành và xã hội, ... Có lẽ đây cũng là một quy luật phổ biến đã được đúc kết thành phương ngôn như: một nghề cho chín còn hơn 9 nghề, một nghề thì sống, đống nghề thì chết, nhất nghệ tinh, ...
Các nhà kinh điển Marx - Lenin cũng bỏ công sức nghiên cứu sâu về tôn giáo. Hơn nữa, đặc điểm của học thuyết Chủ nghĩa Marx là một học thuyết mở, rộng rãi và bao dung. Tất cả những cá nhân với tri thức khác nhau, một khi thừa nhận mình là người cộng sản, đều đem kiến thức cá nhân để làm sinh động hơn lý luận chủ nghĩa Marx.
Tuy nhiên, đứng trên quan điểm lịch sử mà nói, chưa bao giờ tôn giáo là một nội dung trọng tâm của chủ nghĩa Marx. Trong kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Marx, không có một tác phẩm kinh điển duy nhất, riêng biệt chỉ bàn chuyên sâu và toàn diện về tôn giáo và tín ngưỡng. Thay vào đó, quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels về vấn đề này được thể hiện rải rác trong nhiều tác phẩm khác nhau, thường là dưới dạng phê phán triết học, chính trị hoặc kinh tế-xã hội. Kế đến, trong thời đại cách mạng, phần lớn các Đảng và lãnh tụ cộng sản chú trọng vào việc giải quyết các vấn đề bức thiết, sống còn như: giải phóng dân tộc, cách mạng ruộng đất, đấu tranh giai cấp trước, trong và sau cách mạng, ... Tôn giáo và tín ngưỡng cùng lắm chỉ xuất hiện như một yếu tố phụ của liên minh công nông, mặt trận dân tộc. Thậm chí ngày nay, khi đất nước đã bước vào giai đoạn phát triển hòa bình, đạt nhiều thành tựu trong đời sống vật chất, tôn giáo và tín ngưỡng vẫn chưa thực sự trở thành một đối tượng ưu tiên để nghiên cứu. Hầu hết các giáo trình CNXH khoa học thường ghép chung việc giảng dạy vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo. Hay như một số cuốn sách ngót 1000 trang, tập hợp kỹ càng rât nhiều ý kiến về Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phản ánh Dư luận trong nước và Quốc tế, phục vụ cho học tập trong Đảng, nhưng cũng đề cập rất hạn chế về vấn đề tôn giáo, không có 1 bài viết riêng về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng.
Hơn nữa, Marx là người phương Tây, ông khảo sát và phê phán chủ yếu với tôn giáo phương Tây - nơi mà tôn giáo từng là bóng ma kinh hoàng của đêm trường Trung cổ. Mặt khác, tinh thần, thể - dụng của tôn giáo phương Đông cũng không hoàn toàn nhất trí với phương Tây. Đến mức mà có nhiều ý kiến cho rằng phương Đông không có tôn giáo, hay tôn giáo phương Đông không phải là tôn giáo.
Như vậy, ta có thể nói rằng, Những kết luận của các nhà Marxist đi trước chưa chắc chắn là chân lý luôn đúng. Nguyên lý cơ bản, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Marx thì không thay đổi, nhưng một số kết luận cụ thể thì hoàn toàn có thể thay đổi.
Chủ nghĩa Marx là một học thuyết mở, rộng rãi và bao dungMang bản chất khoa học, nên chủ nghĩa Mác- Lênin không phải là một hệ thống các nguyên lý giáo điều, bất biến mà gắn với quá trình phát triển của tri thức nhân loại và phong trào cách mạng trên thế giới.
Chính C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Phát triển lý luận Mác-Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân chính. Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin trong quá trình nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã điều chỉnh một số luận điểm của mình.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là một học thuyết mở. Vì vậy, nó không bao giờ là một học thuyết lý luận cứng nhắc và giáo điều. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.
Như luật điểm trên đã trình bày, chủ nghĩa Marx không đặt trọng tâm vào nghiên cứu tôn giáo. Vì vậy, nếu muốn có một hệ thống lý luận về tôn giáo tín ngưỡng sát đúng hơn, chắc chắn phải có một người nào đó đủ tâm và đủ tầm để dùng những nguyên lý của chủ nghĩa Marx, gợi mở những suy nghĩ khác về bản chất của tôn giáo, về những vấn đề siêu hình (với nghĩa là hình nhi thượng học, chứ không phải siêu hình với ý nghĩa là đối lập với biện chứng), ...
Quan điểm của Lenin về nhận thức: từ thấp đến cao, từ phiến diện đến toàn diện
Quan điểm của Lênin về nhận thức nhấn mạnh quá trình phát triển diễn ra từ thấp đến cao và từ phiến diện đến toàn diện. Nhận thức đi từ những hiểu biết ban đầu, đơn giản (thấp) đến những hiểu biết sâu sắc, phức tạp hơn (cao); đồng thời, nó khắc phục những cách nhìn phiến diện bằng cách xem xét sự vật, hiện tượng trong tất cả các mối liên hệ, cả bên trong lẫn bên ngoài, để đạt tới sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc nhất về bản chất của sự vật.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, trong công cuộc đấu tranh cả trong thực tiễn lẫn trên lý luận, quan điểm của các nhà Marxist, chủ trương chính sách của các đảng cộng sản đối với tôn giáo và tín đồ tôn giáo ngày càng có những thay đổi điều chỉnh đúng đắn phù hợp. Từ việc coi tôn giáo là thế lực đối trọng đối đầu, tiến đến coi tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân, tư tưởng tôn giáo là một bộ phận của tư tưởng, ý thức dân tộc, và tín đồ tôn giáo là lực lượng của liên minh quần chúng rộng rãi tham gia xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đó đã được coi là một bước tiến về cả chính sách thực tiễn lẫn lý luận.
Ngày nay khi mà thời đại bão táp cách mạng đi qua, đời sống của con người ngày càng đầy đủ, cho phép cả giới nghiên cứu cũng như các nhà chính trị và toàn thể nhân dân suy tư về những vấn đề vượt lên trên cuộc sống thường ngày - những vấn đề mà trước đây có thể người ta coi như là viển vông, vô giá trị, ... Thời Đại Hòa Bình cũng cho phép các nhà Lý luận, các nhà chính trị tiếp cận với giới tôn giáo một cách đa chiều hơn. Họ gặp nhau không chỉ với khía cạnh là liên minh chính trị chống lại kẻ thù dân tộc hay kẻ thù giai cấp, gặp nhau trên cơ sở hợp tác để lao động sản xuất, hay phối hợp để tuyên truyền chính trị, ... mà còn xuất hiện nhiều cơ hội để có thể thật sự hiểu hơn về nhau (quan hệ có tính hai chiều)
Nghe thì có vẻ khó tin nhưng những bước tiến lớn về khoa học của nhân loại cũng là một điều kiện để chúng ta có thể nhìn nhận tôn giáo một cách khách quan hơn. Khoa học càng phát triển thì chúng ta càng thấy rõ vũ trụ này vô cùng đa dạng và phức tạp, và những kết quả của khoa học kỹ thuật phát triển càng làm cho nhãn quan của những người theo chủ nghĩa duy vật thô sơ, đơn giản, một chiều chóng phá sản. Và do đó, càng dẫn đến nhu cầu phải nhìn nhận lại những quan điểm đã được đặt ra trong tôn giáo.
Đánh giá tôn giáo trong góc nhìn đa diện: không chỉ là thần linh và tạo vậtNhư trên đã nói, tinh thần, thể - dụng của tôn giáo phương Đông cũng không hoàn toàn nhất trí với phương Tây. Đến mức mà có nhiều ý kiến cho rằng phương Đông không có tôn giáo, hay tôn giáo phương Đông không phải là tôn giáo.
Như vậy xuất hiện một tình huống là, những kết luận của các nhà Marxist không sai, nhưng nó chỉ đúng với một mô hình, một định nghĩa tôn giáo nào đó mà thôi. Khi đem kết luận đó để đánh giá một đối tượng có nội hàm không hoặc trùng khớp hoàn toàn nhưng cũng mang tên gọi là "tôn giáo", rất dễ dẫn đến sự sai lầm, hoặc gây tổn thương cho những đối tượng thuộc vào loại "tôn giáo" kia.
Như vậy việc cập nhật để làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác về tôn giáo còn bao hàm cả việc định nghĩa lại về tôn giáo, hoặc chỉ rõ định nghĩa tôn giáo trong chủ nghĩa Mác là nói đến loại tôn giáo nào.
0 Nhận xét