Kinh Địa Tạng - hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, phân viện nghiên cứu Phật học miền Bắc biên soạn
Kinh Địa Tạng hiện nay có ba bản Việt dịch thông dụng được các Phật tử lựa chọn để hành trì
1. Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện của hòa thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch - thường được các hội nhóm theo Tịnh tông học Hội lựa chọn
2. Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện của hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, do hội Hộ niệm Việt Nam biên soạn
3. Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện của hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, phân viện nghiên cứu phật học miền Bắc biên soạn và in vào trong cuốn Chư Kinh Nhật Tụng
Bản số 1 và số 2, nhờ có các hội nhóm tịnh độ bỏ công bỏ của để xiển dương và trở nên khá phổ biến. Tuy nhiên trong quá trình hành trì thì có một số vấn đề, các bản kinh này dùng quá nhiều các từ địa phương, phần nghi thức cũng chưa được đầy đủ, thậm chí chưa ăn nhập (Tụng kinh Địa Tạng nhưng lấy nguyên phần nghi thức của Kinh A Di Đà, ...), ...
Vì vậy chúng tôi xin chia sẻ lại bản của phân viện nghiên cứu phật học miền Bắc. Nếu ai có nhu cầu sử dụng, biên soạn thành sách thì có thể copy để đỡ phải đánh máy lại.
Xin nương nhờ vào thần lực của chư Phật, tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền thánh tăng mà nhất là ngài Địa Tạng Bồ tát phù hộ cho Quốc giới được an ổn, khiến chúng sinh được nhiều lợi ích theo đúng như trong kinh Địa tạng đã nói
Nam mô đại bi đại nguyện đại Thánh đại từ, Thiết Vi Sơn gian, Diêm ma la giới, U Minh giáo chủ, địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận phương chứng bồ đề, bản tôn Cứu khổ Địa Tạng Bồ tát ma ha tát
(Kinh Địa Tạng)
Tam tạng pháp sư Pháp Đăng Hán dịch
HT. Thích Tuệ Hải Việt dịch
ĐỈNH LỄ TAM BẢO
Tất thảy cung kính Dốc lòng kính lạy Phật - Pháp - Tăng thường
ở khắp mười phương. (3 lễ) OOO
NGUYỆN HƯƠNG
Nguyện hương
cùng mây bay khắp cõi,
Cúng dàng chư Phật,
Pháp mười phương,
Hết thảy Bồ Tát,
chúng Thanh Văn,
Cả chư Hiền
Thánh trong Pháp giới,
Duyên khởi quang
minh đài soi sáng,
Bao trùm rộng khắp
cõi vô biên,
Chúng sinh đều
phát tâm Bồ Đề.
Vọng nghiệp xa
lìa lên bờ giác. (1 vái) OOO
Cúng dàng rồi - Tất thảy cung kính. Dốc lòng kính lạy Phật -
Pháp - Tăng thường ở khắp mười phương. (1
lễ) OOO
TÁN PHẬT
Phật tâm đức lớn hơn trời bể,
Pháp nhiệm mầu thiên thể sáng
soi,
Thuyền Bát Nhã mọi loài cứu vớt,
Gieo nhân lành ban phát thiện
duyên,
Đạo giải thoát Diệt phiền não chướng,
Hàng phục ma oan chúng thì ân,
Hơn tám vạn Pháp môn khai mở,
Khiến chúng sinh giác ngộ an vui.
Án Phạ Nhật La Vật. (3 lần) 1 vái
TAM BÁI
Chí tâm đỉnh lễ: Nam
mô tận hư không biến Pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn
pháp, Hiền Thánh Tăng Thường trụ Tam bảo. (1
lễ)
Chí tâm đỉnh lễ: Nam
mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật,
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn, Linh
Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lễ)
Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi
tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại
Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lễ) OOO
SÁM HỐI
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi Pháp giới chúng sinh, tất nguyện
đoạn trừ tam chướng quy mệnh sám hối (1 lễ)
ooo
Đệ tử chúng đẳng chí tâm sám hối:
Xưa kia con tạo bao nghiệp ác,
Đều do ba độc: tham, sân, si,
Từ thân, miệng, ý, phát sinh ra,
Hết thảy con nay cầu sám hối,
Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường
ấy,
Thảy đều tiêu diệt được yên vui,
Niệm niệm cùng khắp trong cõi
pháp,
Rộng độ chúng sinh chẳng thoái
lui.
(1 vái) ooo
Sám hối phát nguyện rồi, quy mệnh lễ Địa Tạng Vương Bồ Tát
cùng khắp bậc Tam Bảo. (3 lễ) OOO
BÀI TỰA CA NGỢI ĐỨC ĐỊA TẠNG
Chúng con dốc
lòng quy mệnh lễ,
Lạy Đức Giáo chủ
cõi U Minh,
Bản Tôn Địa Tạng
Đại Bồ Tát,
Rộng đầy như đất
bao trùm khắp,
Cõi nước phương
Nam toả hương thơm,
Mây báu mưa hoa
vô lượng số,
Hiển hiện điềm
lành tô trang nghiêm,
Trời, người, bạch
Phật duyên gì thế?
Phật rằng: Địa Tạng
Bồ Tát hiện,
Chư Phật ba đời đều
tán thưởng,
Mười phương Bồ
Tát cùng tin tưởng,
Con nay có được
thiện duyên,
Ca ngợi Địa Tạng
chân công đức,
Lưu trữ nhân
lành độ chúng sinh,
Rung Tích Trượng
mở tung địa ngục,
Cầm Minh Châu
soi khắp đại thiên,
Điện Diêm Vương
đài gương nghiệp tỏ,
Cõi Diêm Phù vì
độ chúng sinh,
Làm Giáo chủ chứng
minh công đức.
Nam mô Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bản Tôn Địa Tạng
Vương Bồ tát Ma ha tát. (3 lần) 1 vái OOO
TÁN HƯƠNG
Lư hương vừa bén
chiên đàn
Khắp trong cõi pháp Đạo
tràng thơm thay
Hải hội chư Phật đều
hay
Theo chỗ dâng kết đài
mây trong lành
Ân cần dãi tỏ lòng
thành
Toàn thân chư Phật hiện
hành độ cho.
Nam mô Hương vân cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần) 1 vái OOO
THẦN CHÚ SẠCH KHẨU
NGHIỆP
Án tu lị tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị tát bà ha. (3 lần) O
THẦN CHÚ SẠCH THÂN
NGHIỆP
Án tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 lần) O
THẦN CHÚ SẠCH BA
NGHIỆP
Án sa phạ, bà phạ truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật
độ hám. (3 lần) O
THẦN CHÚ AN THỔ ĐỊA
Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ tát bà
ha. (3 lần) O
THẦN CHÚ PHÁ CÚNG
DÀNG
Án nga nga nẵng, tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần) OOO
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu
Muôn đời khó gặp dễ hay đâu
Con nay nghe thấy được trì thụ
Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu
sâu.
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ NHẤT: THUYẾT PHÁP TRÊN CUNG TRỜI ĐAO LỢI
1 - Chính thực tôi nghe: Một thời Đức Phật ở Trời Đao Lợi đã
vì Mẫu Thân mà Ngài thuyết Pháp.
Bấy giờ hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ Tát nhiều không kể xiết,
ở khắp mười phương vô lượng thế giới đều đến đại hội, cùng khen ngợi rằng: O
Đức Phật Thích Ca thường ở trong đời ngũ trược ác thế, hiện
đại trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, thần thông đại lực điều phục chúng sinh đảo điên
ngang ngạnh, khiến chúng hiểu rõ “Pháp khổ Pháp vui”.
Chư Phật khen xong, liền sai thị giả xin hỏi Thế Tôn.
Lúc đó Như Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn áng mây phát
quang rực rỡ. Đó là:
Mây phát quang đại viên mãn,
Mây phát quang đại Từ Bi,
Mây phát quang đại trí tuệ,
Mây phát quang đại phúc đức,
Mây phát quang đại Bát Nhã,
Mây phát quang đại Tam Muội,
Mây phát quang đại cát tường,
Mây phát quang đại công đức,
Mây phát quang đại quy y,
Mây phát quang đại tán thán, …
Đức Phật phóng ra những áng mây sáng nhiều hơn thế nữa không
thể kể xiết, lại nói ra tiếng vi diệu như là:
Tiếng bố thí độ, tiếng trì giới độ,
Tiếng nhẫn nhục độ, tiếng tinh tấn độ,
Tiếng thiền định độ, tiếng Bát nhã độ,
Tiếng từ bi, tiếng hỷ xả, tiếng giải thoát,
Tiếng vô lậu, tiếng trí tuệ, tiếng đại trí tuệ,
Tiếng Sư Tử gầm, tiếng đại Sư Tử gầm,
Tiếng sấm mây, tiếng đại sấm mây. O
2 - Cũng tiếng vang ấy Đức Phật nói ra kể không thể xiết, có
vô lượng ức Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở cõi Sa Bà và các cõi khác đều đến đại hội tại
Trời Đao Lợi, các vị ấy là:
Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi,
Trời Tu Diệm Ma, Trời Đâu Xuất Đà,
Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại,
Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ,
Trời Đại Phạm, Trời Thiểu Quang,
Trời Vô Lượng Quang, Trời Quang Âm,
Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh,
Trời Biến Tịnh, Trời Phúc Sinh,
Trời Phúc Ái, Trời Quảng Quả,
Trời Nghiêm Sức, Trời Vô Lượng Nghiêm Sức,
Trời Nghiêm Sức Quả Thực, Trời Vô Tưởng,
Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện-Kiến,
Trời Thiện Hiện, Trời Sắc Cứu Kính,
Trời Ma Hê Thủ La, đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, cả
Thiên, Long chúng, Các chúng Quỷ, Thần đều đến đại hội. O
Lại có các Thần ở cõi Sa Bà, nhiều phương nước khác như là:
Thần bể, Thần đất, Thần núi, Thần các sông ngòi, Thần coi đầm hồ, Thần chỗ hư
không, Thần trông lúa mạ, Thần ở trên trời, Thần chủ quản ngày, Thần chủ quản
đêm, Thần xét ăn uống, Thần giữ cỏ cây, các vị Thần này đều đến đại hội.
Lại có những chúa Quỷ lớn ở cõi Sa Bà, nhiều phương nước
khác, các chúa Quỷ như: Quỷ thu hút máu, Quỷ lấy tinh khí, Quỷ nuốt thai trứng,
Quỷ hành bệnh tật, Quỷ thâu khí độc, Quỷ dụng từ tâm, Quỷ làm phúc lợi, Quỷ đại
ái kính, các Chúa Quỷ này đều đến đại hội. O
3 - Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Ngài Bồ tát Văn Thù
Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng: “Ông xem chư Phật và chư Bồ tát, Trời, Rồng, Quỷ, Thần
ở thế giới này cùng thế giới khác, ở đất nước này cùng đất nước khác, hiện đang
dự hội ở Trời Đao Lợi, ông có thể biết là bao nhiêu không?”
Bồ Tát Văn Thù Bạch Đức Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Nếu
dùng sức thần của con tính đếm, dù cho nghìn kiếp cũng không biết được”.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: “Ngay như Ta lấy mắt Phật
nhìn nhận cũng không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều là do Ngài Địa Tạng Bồ
tát từ bao đời kiếp, hoặc là đã độ, đang độ, sẽ độ, hoặc đã thành tựu, hoặc
đang thành tựu, hoặc sẽ thành tựu”.
Bồ Tát Văn Thù lại bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Bao kiếp
tới nay nhờ tu thiện căn mà con đã chứng được trí vô ngại, nghe lời Phật dạy liền
tin theo ngay, còn như các hàng tiểu quả Thanh Văn, Thiên Long tám bộ và các
chúng sinh đời sau dầu nghe những lời thành thực của Đức Như Lai tất sinh ngờ vực,
dù có rập đầu vâng chịu đi nữa cũng chưa dẹp khỏi được sự báng nhạo. Cúi xin Thế
Tôn chỉ rõ nhân địa tu hành của Đại Địa Tạng Bồ Tát, Ngài làm hạnh gì, đã lập
nguyện gì, mà được thành tựu khôn xiết nghĩ bàn những sự như thế”? O
Đức Phật liền bảo Ngài Văn Thù rằng: “Ví như tam thiên đại
thiên thế giới trong có bao nhiêu cỏ cây, lùm, rừng, lúa, vừng, tre, lau, đá,
núi, bụi nhỏ, cứ cho mỗi vật là một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng,
mỗi hột cát là một cõi nước, rồi mỗi cõi nước, cứ một bụi nhỏ lại là một kiếp,
tính hết bụi nhỏ trong một kiếp ấy đều là kiếp cả. Bồ Tát Địa Tạng từ khi chứng
quả Thập Địa tới nay cũng đã nhiều gấp nghìn lần con số thí dụ kể trên; huống
là từ thuở Bồ Tát Địa Tạng còn từ trong bậc Thanh Văn, Độc Giác.
Lại nữa Văn Thù! Uy thần thệ
nguyện của Bồ Tát đó khó thể nghĩ bàn. Nếu đời sau này có người thiện nam hay
thiện nữ nào nghe thấy danh tự Địa Tạng Bồ tát hoặc là khen ngợi chiêm ngưỡng lễ
lạy, hoặc niệm danh hiệu hay là cúng dàng cho chí sơn, vẽ, khắc, đắp hình tượng
thì những người ấy sẽ được trăm lần sinh lên ở trong ba ba cõi Trời, không bao
giờ đọa vào đường ác nữa”. O
4 - Này Văn Thù ơi! Trải vô lượng
kiếp xa xưa về trước, tiền thân của Ngài Địa Tạng Bồ Tát là con Trưởng Giả. Đời
ấy có Phật hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, con ông Trưởng Giả,
thấy Phật tướng mạo đầy đủ tốt đẹp nghìn phúc trang nghiêm, mới hỏi Đức Phật;
tu hạnh nguyện gì mà được như thế?
Khi ấy Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh, bảo con Trưởng
Giả muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua thời gian lâu xa
độ thoát tất cả chúng sinh khốn khổ.
Này Văn Thù ơi! Con ông Trưởng
Giả nghe xong nguyện rằng: Con xin từ nay trở về sau này đời đời kiếp kiếp,
dùng mọi phương pháp khuyên bảo chúng sinh trong sáu đường khổ, khiến cho bọn họ
được giải thoát hết. Rồi tự thân con mới chứng quả Phật. Vì đối trước Phật, con
ông Trưởng Giả tự phát nguyện lớn cho nên đến giờ trải qua trăm nghìn muôn vạn ức
kiếp không thể kể xiết mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát. O
5 - Lại về quá khứ cách đây vô
lượng A Tăng Kỳ Kiếp, có Đức Phật là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, Đức Phật
ấy thọ đến bốn trăm ngàn muôn ức số kiếp, trong đời Tượng-Pháp có người con gái
dòng Bà La Môn tích phúc sâu dầy, mọi người kính nể, đi đứng nằm ngồi chư Thiên
hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh Tam Bảo. Vị Thánh Nữ ấy, bằng
mọi phương tiện, đủ lời khuyên ngăn muốn cho bà mẹ phát sinh chính kiến, nhưng
mà bà mẹ vẫn chưa tin hẳn, chẳng được bao lâu bà ấy bị chết, thần hồn sa đọa địa
ngục Vô Gián. Lúc đó, Thánh Nữ biết ngay mẹ mình khi sống ở đời không tin nhân
quả, nay chết ắt đọa theo nghiệp mà sinh vào nơi đường ác, Thánh Nữ thương xót
liền bán cửa nhà, mua nhiều hương hoa cùng là phẩm vật, lên chùa tháp Phật làm
lễ cúng dàng. O
Đến một ngôi chùa, thấy pho tượng
Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai đắp vẽ uy nghi trang nghiêm rực rỡ. Thánh
Nữ chiêm bái càng thêm kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: Là bậc Đại Giác Phật đủ
trí tuệ, nếu như Đức Phật còn ở tại thế, mà mẹ tôi mất, tôi có thể đến, hỏi nơi
Đức Phật chắc biết mẹ tôi sinh ở chốn nào? Nghĩ rồi Thánh Nữ buồn rầu rơi lệ
ngưỡng vọng Như Lai.
Bỗng nghe trên không, có tiếng
bảo rằng: “Này Thánh Nữ kia, thôi đừng khóc nữa hãy nghe Ta bảo chỗ đọa mẹ
ngươi”.
Thánh Nữ hướng lên chắp tay bạch
rằng: “Đấng thần nào đấy? Đến giải lòng sầu cho tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất
đi đến nay, ngày đêm thương nhớ, không biết hỏi đâu? mẹ sinh chốn nào?”
Trên không lại bảo truyền Thánh
Nữ rằng: “Ta đây là Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi
đương chiêm bái đó, thấy người thương mẹ gấp mấy kẻ thường nên ta mới đến chỉ
cho ngươi biết”. O
Thánh Nữ nghe nói liền ngã lăn
ra, tay chân mình mẩy, đều bị tổn thương, những người đứng bên vội vàng đỡ lấy,
hồi lâu tỉnh dậy rồi hướng hư không mà bạch Phật rằng: “Xin Phật từ mẫn bảo
ngay cho chỗ mẹ con thác sinh. Không thời thân tâm của con chết mất”. Đức Phật
liền bảo với Thánh Nữ rằng: “Ngươi cúng dàng xong mau trở về nhà rồi ngồi
nghiêm chỉnh niệm danh hiệu Ta thì sẽ biết nơi mẹ ngươi sinh đó”.
Sau khi lễ Phật Thánh Nữ về
nhà, vì thương mẹ mà ngồi yên ngay thẳng niệm danh hiệu Phật Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai suốt một ngày đêm. Bỗng nhiên thấy mình đến bờ biển kia, nước sôi
sùng sục, thú dữ đông đúc; sắt thép là thân nhảy bay trên biển chạy rào bên bên
đông, xua đuổi bên tây thấy trăm nghìn vạn đàn ông, đàn bà, khi chìm khi nổi bị
các thú dữ tranh nhau ăn thịt. Lại quỷ Dạ Xoa hình thù quái lạ hoặc nhiều tay
chân, hoặc nhiều đầu mắt răng nanh nhọn sắc chìa ra như gươm, lùa những tội
nhân đến gần thú dữ cho chúng cắn vồ. Rồi quỷ lại túm giật đầu, giật chân những
kẻ tội nhân; nhiều cách hành hạ chẳng dám nhìn lâu. Khi ấy Thánh Nữ nhờ sức niệm
Phật nên không sợ hãi. O
Có một Quỷ Vương tên là Vô Độc
cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: “Hay thay Bồ Tát! Có duyên sự gì mà
Ngài đến đây?”
Thánh Nữ bèn hỏi: “Này Quỷ
Vương ơi! Đây là chốn nào?”
Vô Độc đáp rằng: “Đây là tầng
bể thứ nhất phía tây núi Đại Thiết Vi”.
Thánh Nữ lại hỏi: “Tôi nghe thấy
nói ở núi Thiết Vi trong có địa ngục, việc ấy thật không?”
Vô Độc đáp rằng: “Địa ngục có
thật”.
Thánh Nữ lại hỏi; “Nay tôi làm
sao đến được ngục đó?”
Vô Độc đáp rằng: “Chỉ có hai
điều một nhờ uy thần, hai do nghiệp lực ngoài hai điều này không thể đến được”.
Thánh Nữ lại hỏi: “Duyên cớ vì
sao mà nước bể này sục sôi như thế, lại lắm tội nhân cùng các thú dữ?”
Vô Độc đáp rằng: “Đây là chúng
sinh làm ác ở cõi Nam Diêm Phù Đề mới chết trong khoảng bốn mươi chín ngày,
không người kế tự làm việc công đức cứu khổ nạn cho, lúc sống kẻ đó không tạo
nhân lành. Nên theo nghiệp cảm dắt vào địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua bể
này; phía đông cách đây mười vạn do tuần lại có một bể, sự khổ quá thể còn gấp
bội hơn phía đông bể đó lại có bể nữa, nỗi khổ chất chứa nói không thể cùng, đó
đều là những nghiệp nhân xấu xa, ba nghiệp cảm ra, cùng gọi bể nghiệp. Chính là
ba cái nơi bể này vậy”. O
Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô
Độc: “Địa ngục ở đâu?”
Vô Độc đáp rằng: “Trong ba bể ấy
đều là địa ngục nhiều đến trăm nghìn, mỗi ngục đều khác, số địa ngục lớn có mười
tám cửa, kế đó lại có năm trăm ngục nhỏ khổ độp vô chừng, nhỏ hơn thế nữa có
nghìn vạn ngục cũng khổ vô chừng”.
Thánh Nữ lại hỏi Đại Quỷ Vương
rằng: “Mẹ tôi mới mất, chẳng hay thần hồn phải đọa ngả nào?”
Vô Độc Quỷ- Vương hỏi lại Thánh
Nữ: “Thân mẫu Bồ Tát khi người còn sống quen làm nghiệp gì?”
Thánh Nữ đáp rằng: “Mẹ tôi khi
sống mê tín tà đạo, chê bai Tam Bảo, có lúc hơi tin, xong lại bất kính, tuy rằng
mới chết mà tôi chưa biết đọa lạc vào đâu?”
Vô Độc lại hỏi: “Thân mẫu Bồ
tát tên họ là gì?”
Thánh Nữ đáp rằng: “Song thân
tôi đều dòng Bà La Môn cha tôi tên là Thi La Thiện Kiến, mẹ tôi thì tên là Duyệt
Đế Lợi”. Vô Độc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin thỉnh Thánh Nữ hãy quay trở về,
chớ nên đem lòng âu sầu quá nữa, bà Duyệt Đế Lợi tuy có phạm tội xong bà đã được
sinh lên cõi Trời ba hôm nay rồi! Đó là nhờ lòng con bà hiếu thuận, nhất tâm tu
phúc, bố thí cúng dàng chùa, tháp thờ Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai,
chẳng những một mình mẹ của Bồ tát được thoát địa ngục mà cả tội nhân ở ngục Vô
Gián ngày ấy cũng được hưởng sự vui sướng cùng được thác sinh”. Quỷ Vương nói
xong, chắp tay vái chào giã từ mà lui. O
Thánh Nữ lúc đó, như tỉnh giấc
mộng biết rõ sự này liền đến trước tháp và tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai mà nguyện lớn rằng: “Con nguyện từ nay nhẫn đến sau này nếu còn chúng
sinh mắc phải tội khổ, thì con lập ra đầy đủ phương tiện khiến cho chúng sinh đều
được giải thoát”.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi:
“Quỷ Vương Vô Độc tức là Bồ tát Tài Thủ bấy giờ, còn người con gái dòng Bà La
Môn, nay chính là Địa Tạng Bồ Tát vậy”. (1
vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ HAI: PHÂN THÂN TẬP HỘI
1 - Lúc đó phân thân Địa Tạng Bồ
Tát ở khắp trăm nghìn muôn ức địa ngục không thể nghĩ bàn, không thể nói xiết, vô
lượng thế giới đều đến đại hội tại Trời Đao Lợi. Nhờ có sức thần của Đức Như
Lai, các phân thân ấy cùng với các vị đã được giải thoát tuỳ các phương diện đường
nghiệp báo ra kể có hàng nghìn vạn na do tha, cùng cầm hương hoa đến cúng dàng Phật.
Những chúng cùng đến đều nhờ Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa giúp cho an trụ nơi Đạo Vô
Thượng Chính Đẳng Chính Giác không còn thoái chuyển. Những chúng sinh đó từ kiếp
lâu xa đã phải trải qua trong vòng sinh tử ở trong sáu đường, chịu những đau
thương không tạm ngừng dứt, nhờ lòng từ mẫn thệ nguyện sâu dầy của Ngài Địa Tạng
nên tất cả chúng đều chứng đạo quả. Cả thảy khi đến cung Trời Đao Lợi, lòng họ
vui mừng chiêm ngưỡng Như Lai không hoài mỏi mắt. O
2 - Bấy giờ Đức Phật Thế Tôn
giơ cánh tay vàng xoa đầu hóa thân Địa Tạng Bồ Tát trăm nghìn muôn ức không thể
nghĩ bàn, không thể nói xiết vô lượng Thế giới mà dạy bảo rằng: “Ta ở trong đời
ngũ trược xấu xa, giáo hóa chúng sinh ương ngạnh như thế, khiến chúng đều phục
bỏ tà theo chính, mười phần chúng sinh, còn vài phần ác. Ta cùng phân thân ra
hàng trăm nghìn vạn ức hóa thân, rộng mở phương tiện. Nếu trong chúng có hoặc kẻ
lợi căn, nghe liền tin nhận, hoặc kẻ thiện quả, chuyên cần khuyên bảo, sẽ được
thành tựu, hoặc kẻ ngu độn, dạy dỗ lâu rồi, cũng hướng tin theo, hoặc kẻ nặng
nghiệp, lòng không kính ngưỡng, nhưng bọn chúng ấy, hết thảy khác nhau, Ta đều
phân thân độ cho giải thoát
Hoặc hiện ra thân đàn ông đàn
bà,
Hoặc hiện ra thân Trời, Rồng,
Quỷ, Thần,
Hoặc hiện ra núi, rừng, nguồn,
sông, suối, ao, giếng, đầm, hồ, làm lợi cho người, đều được giải thoát.
Hoặc hiện ra thân Thiên Đế,
Hoặc hiện ra thân Phạm Vương,
Hoặc hiện ra thân Vua Chuyển Luân,
Hoặc hiện ra thân Quốc Vương,
Hoặc hiện ra thân Cư Sĩ Hoặc
hiện ra thân Tể Phụ,
Hoặc hiện ra thân Quan Lại
Hoặc hiện ra thân Tỷ Khiêu, Tỷ
Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cho đến những thân Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật
và Bồ tát để hóa độ chúng sinh, chẳng phải chỉ có hiện một thân Phật trước các
ngươi đâu.
Địa Tạng! Ông xem Ta đã trải
qua bao nhiêu số kiếp nhọc nhằn độ thoát những chúng ương ngạnh khó dạy như thế.
Nếu còn có kẻ chưa điều phục được phải theo nghiệp báo, ác đạo đọa vào chịu khổ
nghẹn ngào, các ông nên tưởng nhớ đến lời Ta ân cần phó chúc trên Trời Đao Lợi,
khiến cho chúng sinh ở cõi Sa Bà đến khi Bồ Tát Di Lặc ra đời, đều được giải
thoát hết những nỗi khổ, được Phật thụ ký”. O
Bấy giờ hết thảy các hoá thân
của Địa Tạng Bồ Tát ở các thế giới hợp thành một hình, rồi lệ thương cảm mà bạch
Phật rằng: “Con từ bao kiếp nay nhờ ơn Phật tiếp độ khiến cho con được thần lực
không thể nghĩ bàn, trí tuệ đầy đủ. Nên con Phân thân khắp các thế giới như cát
sông Hằng trăm nghìn vạn ức mỗi một thế giới hóa muôn ức thân, mỗi một thân độ
trăm nghìn vạn người, khiến cho chúng đều quy kính Tam Bảo, lìa hẳn sinh tử hưởng
vui Niết Bàn. Ở nơi Phật Pháp những chúng sinh nào chỉ làm việc lành bằng một sợi
tóc, giọt nước, hạt cát, hoặc là nhỏ hơn chỉ một hạt bụi con cũng dần dần độ
cho giải thoát được lợi ích lớn.
Địa Tạng Bồ Tát ba lần bạch Phật:
“Kính mong Thế Tôn! Xin đừng bận tâm đến các chúng sinh ác nghiệp sau này”. Bấy
giờ Đức Phật bèn khen ngợi ngay Địa Tạng Bồ Tát: “Hay thay! Hay thay! Ta hỗ trợ
ông cho được toại nguyện, từ bao đời kiếp xa xưa đến nay, thường phát nguyện lớn
độ hết chúng sinh, thời ông liền chứng đạo quả Bồ Đề”. (1 vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ BA: NÓI RÕ NGHIỆP DUYÊN CHÚNG SINH
1 - Bấy giờ Thánh Mẫu là bà Ma
Gia chắp tay kính bạch Địa Tạng Bồ Tát: “Xin thưa Thánh Giả! Chúng sinh trong
cõi Nam Diêm Phù Đề tạo nghiệp khác nhau, cảm thọ quả báo, sự ấy thế nào?”.
Ngài Địa Tạng đáp: “Trong
nghìn muôn cõi cho đến các nước nơi có địa ngục, nơi không địa ngục, nơi có đàn
bà, nơi không đàn bà, nơi có Phật Pháp, nơi không Phật Pháp, cho đến Thanh Văn
cùng Bích Chi Phật tạo nghiệp khác nhau, cảm thọ quả báo cũng đều khác nhau, chớ
chẳng phải riêng chỉ có tội báo ở nơi địa ngục khác nhau thôi đâu!”.
Ma Gia phu nhân bà lại bạch rằng:
“Tôi nay muốn nghe tội báo trong cõi Nam Diêm Phù Đề chiêu cảm đường ác”.
Ngài Địa Tạng đáp: “Thánh Mẫu
lắng nghe! Tôi xin lược thuật”.
Thánh Mẫu bạch rằng: “Xin Ngài
Thánh Giả nói cho tôi nghe”.
2 - Bấy giờ Địa Tạng thưa Thánh
Mẫu rằng: “Tên những tội báo ở cõi Phù Đề là như thế này: Nếu có chúng nào bất
hiếu cha mẹ cho đến giết hại thì phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp
cũng không thể biết bao giờ được ra.
Nếu có chúng nào làm Phật chảy
máu, huỷ báng Tam Bảo, xem thường Kinh điển, cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián,
kể vạn ức kiếp, cũng không thể biết bao giờ được ra.
Nếu có chúng nào, lấn chiếm của
chùa, nhơ phạm Tăng Ni, hoặc ở trong chùa tự tình dâm loạn, hoặc giết, hoặc hại,
những kẻ như vậy cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp cũng không
thể biết bao giờ được ra.
Nếu có chúng nào giả làm Sa
Môn, lòng phi Sa Môn, phá của Thường trụ, trái phạm giới luật, khinh bỉ lường gạt
những người tại gia gây nhiều tội ác, những hạng như thế, cũng phải đọa vào địa
ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp cũng không thể biết bao giờ được ra.
Nếu có chúng nào ăn trộm, ăn cắp
của cải nhà chùa, tiền tài, thóc gạo, đồ ăn, thức uống, quần áo cho đến bất cứ
thứ gì, không cho tự lấy cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp
cũng không thể biết bao giờ được ra.
Ngài Địa Tạng Bồ Tát lại thưa
rằng: “Kính bạch Thánh Mẫu! Nếu có chúng sinh gây tội như thế, ắt phải đọa vào
ngục năm Vô Gián, cầu tạm ngừng nghỉ giây phút cũng không được”.
Thánh Mẫu lại hỏi Địa Tạng Bồ
Tát: “Vì sao gọi là địa ngục Vô Gián “.
Ngài Địa Tạng đáp: “Có bao địa
ngục trong núi Thiết Vi, những địa ngục lớn có mười tám ngục, kế đó lại có năm
trăm ngục nữa tên gọi khác nhau, kế đó lại có hàng nghìn ngục nữa tên cũng khác
nhau.
Những địa ngục ấy, thành toàn
bằng sắt, cao một muôn dặm, chu vi ức dặm, lửa cháy trên thành không chỗ nào hở,
trong thành, các ngục đều nối liền nhau, tên đều khác nhau.
Chỉ có một ngục, gọi là Vô
Gián, ngục này chu vi, kể có ức dặm, tường cao nghìn dặm, toàn bằng sắt cả, lửa
cháy trên dưới, hừng hực bốc ra; ở trên tường ngục, chó sắt, rắn đồng, phun lửa
đuổi nhau, khắp nơi ngục ấy. Trong ngục này có cái giường biến hiện, rộng hàng
muôn dặm, một người có tội, nằm thấy chật giường, vạn người có tội, nằm cũng chật
giường, là do tội nghiệp cảm ra như thế.
Lại những tội nhân, chịu mọi sự
khổ: Trăm nghìn Dạ Xoa cùng lũ quỷ ác, răng nhọn như gươm, mắt loé như chớp,
móng tay tựa đồng, móc ruột xâu xé, lại có Dạ Xoa cầm chĩa sắt lớn đâm vào tội
nhân, hoặc đâm vào mình, vào mồm, vào mũi, vào bụng, vào lưng, tung lên trên
không, đưa chĩa hứng lấy lại ném xuống giường, rồi lại đâm tiếp. Còn có chim sắt
mổ mắt tội nhân, lại có loài trăn quấn đầu kẻ tội, rồi lại đóng đinh khắp cả
thân mình, cặp kìm kéo lưỡi, lôi ra cày xới và nước đồng sôi đổ tuôn vào miệng.
Sắt nóng quấn thân hàng nghìn vạn lần chết đi sống lại, các nghiệp báo ấy trải
muôn ức kiếp, cũng không thể biết bao giờ được ra.
Dù cho đến khi thế giới này hoại,
chuyển thế giới khác; khi thế giới ấy, lại hoại lại chuyển sang thế giới khác;
thế giới phương ấy, lại hoại tiếp nữa, thì cứ lần lượt mà chuyển tiếp đi cho đến
sau khi thế giới cũ thành, lại phải quay về chịu quả báo tiếp.
Những sự tội báo trong ngục Vô
Gián là như thế đấy.
Lại địa ngục đó có năm nghiệp
cảm nên mới gọi là: Năm Vô Gián tội.
Những gì là năm?
Một là! Ngày đêm chịu tội, bao kiếp không hề gián đoạn, nên
gọi Vô Gián.
Hai là! Một kẻ nằm cũng chật ngục nhiều cũng chật ngục, nên
gọi Vô Gián.
Ba là! Khí cụ để hành tội như: Gươm, đao, sào, gậy, cưa, đục,
giáo, mác, cối giã, cối xay, chày đồng, lưới sắt, chim, chó, rắn, rết, voi xéo,
ngựa giày, những thứ vật này, cấu, nhai, băm, chặt; đói ăn gỉ sắt, khát uống nước
đồng, khổ cực chất chồng, tháng năm liên tiếp. Kể vô số kiếp không ngơi ngớt dừng, nên gọi Vô Gián.
Bốn là! Bất luận đàn ông, đàn bà, trẻ già, mọi rợ, giàu
sang, hèn hạ, Trời, Rồng, Quỷ, Thần đã gây ra tội tất phải theo nghiệp mà chịu
quả báo, nên gọi Vô Gián.
Năm là! Nếu phải đọa vào ngục ấy, từ khi mới vào đến trăm
nghìn kiếp trong một ngày đêm chết đi sống lại có hàng vạn lần, cầu xin tạm
ngơi một giây không được, trừ khi sạch nghiệp mới được đầu thai, vì khổ liên
miên, nên gọi Vô Gián”.
Ngài Địa Tạng lại thưa Thánh Mẫu
rằng: “Địa ngục Vô Gián, tôi chỉ mới nói lược qua như thế. Nếu nói rộng ra tên
những khí cụ, để hành tội nhân cùng sự thống khổ trong địa ngục đó, dẫu nói một
kiếp cũng không hết được”.
Ma Gia phu nhân nghe rồi ảo
não, chắp tay cung kính đỉnh lễ mà lui. (1
vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ TƯ: NGHIỆP CẢM CỦA
CHÚNG SINH
1 - Khi đó Địa Tạng bạch Đức Phật
rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Vì con nhờ sức uy Đức Như Lai nên mới phân thân được
thân hình này, đi khắp trăm nghìn vạn ức thế giới, cứu độ chúng sinh đang bị
nghiệp báo, nếu không nhờ sức đại từ của Phật thời chẳng biến hiện ra được như
thế. Con nay lại được Như Lai phó chúc: “Từ nay đến khi Ngài A Dật Đa thành Phật
thì phải độ thoát hết thảy chúng sinh khắp trong sáu đường; con xin vâng lời. Bạch
Đức Thế Tôn! Đừng bận tâm nữa”.
Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa
Tạng: “Tất cả chúng sinh chưa được giải thoát tính thức không định, quen làm điều
ác kết thành nghiệp xấu; quen làm điều lành kết, thành quả tốt; làm thiện làm
ác theo cảnh mà sinh luân chuyển năm đường không lúc nào ngớt, trải qua nhiều
kiếp như số bụi trần, mê lầm chướng nạn như cá trong lưới theo dòng nước chảy
thoạt vào lại ra, thoạt ra lại vào. Vì chúng như thế nên Ta thương lắm. Nay ông
muốn làm theo lời phát nguyện đã từ bao đời, độ cho hết thảy những lũ ấy thì Ta
lo gì nữa “.
2 - Khi ấy Đức Phật nói đến đấy
xong, ở trong Pháp Hội có một vị Đại Bồ Tát hiệu là: Định Tự Tại Vương bạch Đức
Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Từ bao đời kiếp Địa Tạng Bồ tát đã phát nguyện gì mà
nay được Đức Thế Tôn khen ngợi ân cần như thế? Xin Đức Thế Tôn nói qua để cho
chúng con được biết.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Bồ
tát Định Tự-Tại-Vương: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ngẫm nghĩ cho kỹ Ta sẽ vì ông mà
giải thuyết cho”.
3 - Xưa kia đến nay không biết
bao nhiêu là na do tha, A Tăng Kỳ Kiếp. Lúc đó có Phật ra đời hiệu là: Nhất Thiết
Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri Minh Hạnh-Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức
Phật đó thọ tới sáu muôn kiếp, thuở chưa xuất gia, Ngài còn làm Vua ở một nước
nhỏ, cùng kết bạn với Vua nước láng giềng, hai Vua phát tâm cùng tu thập thiện
để làm lợi lạc cho khắp nhân dân.
Thấy nước láng giềng, dân hay
làm ác, hai Vua bàn bạc, tìm mọi phương pháp để dắt dìu dân.
Một ông phát nguyện: “Cầu sớm
thành Phật, để độ dân chúng, không sót một người, vui tươi giải thoát”.
Ông kia cũng nguyện: “Nếu
không độ được hết khổ cho dân đều được an vui, đến ngôi Bồ Đề, thì tôi nguyện
thề chưa thành Phật vội”.
Phật bảo Bồ Tát Định Tự Tại Vương:
“Ông Vua phát nguyện sớm thành Phật là Đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai.
Còn Vua kia nguyện nếu chưa độ
hết chúng sinh khổ não, thời chưa chịu nguyện để được thành Phật, đó chính là
Ngài Địa Tạng Bồ Tát”.
4 - Lại từ xưa kia cách đây
không biết bao Tăng Kỳ Kiếp, có Phật ra đời là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai,
thọ mệnh của Ngài là bốn mươi kiếp, trong đời tượng pháp có vị La Hán phúc độ
chúng sinh, nhân đi giáo hóa gặp một nữ nhân tên là Quang Mục, người nữ nhân
này sắm sửa đồ chay, cúng dàng La Hán.
Vị La Hán hỏi: “Ngươi muốn cầu
gì”? Quang Mục thưa rằng: “Ngày mẹ con mất, con làm việc thiện, để nhờ phúc đó
mà cứu mẹ con, không hiểu mẹ con thác sinh ngả nào?”
La Hán nghe nói, Ngài động
lòng thương nhập định quán thấy mẹ của Quang Mục phải đọa đường ác cực khổ vô
cùng.
Lúc đó La Hán hỏi Quang Mục rằng:
“Khi mẹ con sống đã làm nghiệp gì mà nay đương phải đọa trong đường ác chịu quả khổ thế?”
Quang Mục thưa rằng: “Mẹ con
thường thích ăn cá, ba ba, lại ưa ăn trứng của những loài đó, hoặc rán, hoặc nấu
mải miết vào ăn. Nếu tính đếm số loài kia bị hại kể vạn vạn lần. Con xin Tôn giả
từ mẫn chỉ cho phải làm cách nào cứu được mẹ con?”
La Hán thương xót, bèn dạy
phương tiện khuyên Quang Mục rằng: “Con nên chí thành chuyên niệm danh hiệu Đức
Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và tô, vẽ, khắc hình tượng Đức Phật, thời khiến
kẻ còn, cùng những người mất đều được phúc lợi”.
Quang Mục nghe xong, liền xuất
tiền của, tô, đắp tượng Phật, chí thành cúng dàng lại dốc một lòng cung kính
chiêm lễ. Cảm sự thương khóc bỗng nhiên đêm đó, chiêm bao thấy Phật thân vàng rực
rỡ như núi Tu Di hào quang sáng láng, bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu nữa mẹ
con sẽ lại sinh vào nhà con! Vừa biết đói rét, đã biết nói ngay”.
Quả nhiên sau đó, đứa đầy tớ
gái trong nhà sinh ra được một bé con chưa được ba ngày mà đã biết nói.
Bé kia đau khóc bảo Quang Mục
rằng: “Cho hay quả báo nghiệp duyên sinh tử mình phải nhận lấy, ta đây xưa kia
là mẹ của con, bấy lâu phải ở những chỗ tối tăm, từ lúc lìa con phải đọa địa ngục,
may nhờ phúc lực, của con giúp sức, mới được đầu thai, làm kẻ hèn hạ, sự sống
ngắn ngủi được mười ba tuổi, rồi bị chết non, lại đọa đường ác; con có cách gì,
khiến cho mẹ được mau giải thoát chăng?”
Quang Mục nghe nói, biết đích
mẹ mình, nghẹn ngào thương khóc, thưa với bé kia con của đầy tớ: “Nếu quả mẹ
tôi, thời phải tự biết tội lỗi của mình, đã thành nghiệp gì, mà bị đọa vào đường
ác”.
Bé kia đáp rằng: “Vì hai cái
nghiệp một là giết hại, hai là chửi rủa cho nên chịu báo. Nếu không nhờ được
phúc đức của người cứu nạn cho ta, thời hai nghiệp đó chưa thể thoát được”.
Quang Mục lại hỏi: “Sự thể tội
báo trong ngục thế nào?”
Bé kia lại đáp: “Những tội khổ
ấy không nỡ nói ra, dẫu mà có nói đến trăm nghìn năm, cũng không hết được”.
Quang Mục nghe rồi, hướng lên
trên không rơi lệ mà rằng: “Nguyện cho mẹ con thoát hẳn địa ngục. Hết tuổi mười
ba không còn tội nặng và không phải đọa vào đường ác nữa. Xin khắp mười phương
chư Phật xót thương chứng minh công đức, con nay vì mẹ phát đại nguyện rằng: “Nếu
mẹ con được lìa hẳn ba ngả và nơi hèn hạ, cho đến đời đời không làm thân nữ,
thì con xin nguyện đối trước tượng Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, từ
nay trở đi cho đến nghìn vạn ức kiếp sau này, hễ thế giới nào mà còn chúng sinh
chịu khổ trong ngục và ba đường ác, thì con còn nguyện cứu vớt hết thảy khiến
cho họ được thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Những kẻ mắc phải tội báo
như thế, thành Phật cả rồi, con mới lên ngôi Chính Đẳng Chính Giác”.
Dứt lời nguyện liền nghe thấy
Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai bảo rằng: “Này Quang Mục con! Có lòng từ mẫn
vì mẹ phát ra, lời thệ nguyện lớn thật là hay lắm! Ta quan sát thấy mãn hạn mẹ
ngươi, mười ba tuổi đời, bỏ báo thân ấy, sẽ được thác sinh làm người Phạm Chí,
sống lâu trăm tuổi, sau đó vãng sinh về nước Vô Ưu, sống lâu đến số không thể
tính kể, rồi sau thành Phật, độ khắp Trời, người, số nhiều bát ngát như cát
sông Hằng”.
Phật bảo Bồ tát Định Tự Tại Vương:
“La Hán lấy phúc độ cho Quang Mục thuở đó là Vô Tận Ý Bồ Tát, mẹ Quang Mục là Bồ
Tát Giải Thoát! Còn nàng Quang Mục chính thực là Ngài Địa Tạng Bồ tát. Trong
nhiều kiếp trước mở lòng từ mẫn, Địa Tạng Bồ Tát đã phát nguyện nhiều như cát
sông Hằng độ khắp chúng sinh cho nên như thế, sang đời sau này, nếu có chúng
sinh không chịu làm lành, mà chỉ làm ác cho chí không tin vào luật nhân quả nói
lưỡi hai chiều, gian dâm, ác khẩu, huỷ báng Đại Thừa, những chúng sinh này gây
những nghiệp ấy tất đọa đường ác. Nếu gặp được thiện tri thức khuyên bảo quy y
với Ngài Địa Tạng Bồ Tát, dù chỉ một lát những chúng sinh này đều giải thoát
ngay khỏi ba đường ác. Nếu người chí tâm quy kính chiêm ngưỡng, đỉnh lễ khen ngợi,
lại dâng hương hoa, các thứ ăn uống, y phục châu báu cúng dàng Bồ Tát, thời người
đó được hưởng ở cõi Trời, vui thú thảnh thơi thọ muôn ức kiếp, sau khi hưởng hết
phúc ở cõi Trời, sinh xuống làm người hàng trăm nghìn kiếp, được làm vua chúa
và nhớ lại được nguồn gốc nhân quả kiếp trước của mình.”
Định Tự Tại Vương! Như thế đủ
biết Địa Tạng Bồ Tát có sức uy thần làm lợi chúng sinh không thể kể xiết. Các
ông đã là những bậc Bồ tát, cần nên ghi nhận, nhớ lấy Kinh này để rồi truyền bá
cho rộng khắp ra”.
Ngài Định Tự Tại Vương bạch Phật
rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Xin đừng bận tâm, chúng con đã có hàng nghìn vạn ức các
Đại Bồ Tát đều có thể nương uy thần của Phật, mà giảng Kinh này khắp cõi Phù Đề
làm lợi chúng sinh”.
Ngài Định Tự Tại Vương Bồ Tát
bạch Đức Thế Tôn xong, chắp tay cung kính đỉnh lễ mà lui.
5 - Bấy giờ bốn ông Thiên
Vương cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Lạy Đức
Thế Tôn! Địa Tạng Bồ tát bao kiếp tới nay đã phát nguyện lớn, làm sao đến giờ vẫn
chưa độ được hết thảy chúng sinh mà nay Ngài còn lại phải phát nguyện lớn như
thế nữa? Cúi xin Đức Phật hãy vì chúng con mà chỉ giáo cho”.
Đức Phật liền bảo Tứ Thiên
Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Ta vì các ông cùng các Trời, người đời nay đời
sau, mở đường lợi ích mà nói ra những sự phương tiện của Địa Tạng Bồ Tát độ
thoát chúng sinh, trong đường sống chết thương xót cứu vớt nơi Diêm Phù Đề cõi Sa
Bà này, hết thảy tội khổ”.
Bốn ông Thiên Vương bạch rằng:
“Kính vâng! Lạy Đức Thế Tôn chúng con muốn nghe”.
6 - Đức Phật lại bảo Tứ Thiên
Vương rằng: “Từ kiếp xa xưa cho đến ngày nay, Địa Tạng Bồ tát độ thoát chúng
sinh vẫn chưa mãn nguyện, vì thương xót chúng khổ não đời này lại quán thấy rõ vô
lượng kiếp sau, tội khổ triền miên, mãi mà không dứt, cho nên lại phát ra lời
trọng nguyện. Địa Tạng ở cõi Nam Diêm Phù Đề Sa Bà thế giới dùng trăm nghìn ức
các phép phương tiện giáo hóa chúng sinh.
Này Tứ Thiên Vương! Địa Tạng Bồ
tát:
- Nếu
gặp kẻ sát, thì dạy cho biết vì mầm họa ấy chịu báo chết non.
- Gặp
kẻ trộm cắp thì dạy cho biết sẽ bị quả báo nghèo đói khổ sở.
- Gặp
kẻ tà dâm, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo làm loài chim sẻ.
- Gặp
kẻ ác khẩu, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo họ hàng mắng nhiếc.
- Gặp
kẻ dèm chê, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo mất lưỡi lở mồm.
- Gặp
kẻ giận dữ, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo thân hình xấu xa.
- Gặp
kẻ bỏn xẻn, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo cầu mong không được.
- Gặp
kẻ ăn bậy, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo đói khát đau khổ.
- Gặp
kẻ săn bắn, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo suốt đời tàn tật.
- Gặp
kẻ đốt rừng, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo mê cuồng đến chết.
- Gặp
kẻ bắt chim, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo cốt nhục chia lìa.
- Gặp
kẻ kiêu ngạo thì dạy cho biết sẽ bị quả báo làm thân tôi đòi.
- Gặp
kẻ mê tín, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo sinh nơi hẻo lánh.
- Gặp
kẻ châm chọc, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo ngọng lưỡi hôi mồm.
- Gặp
kẻ ngược đãi, ông bà, cha mẹ, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo trời tru đất diệt.
- Gặp
kẻ làm cha mẹ dượng độc ác, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo roi vọt đời sau.
- Gặp
kẻ phỉ báng phá ngôi Tam Bảo, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo câm ngọng mù điếc.
- Gặp
kẻ khinh nhờn chê bai giáo-pháp, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo đọa vào đường
ác.
- Gặp
kẻ phá hại của cải Thường trụ, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo ức kiếp địa ngục.
- Gặp
kẻ đã phá Tăng-Già phạm hạnh, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo đọa mãi súc sinh.
- Gặp
kẻ phá bỏ giới luật phạm trai, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo cầm thú đói khát.
- Gặp
kẻ thui nấu, chém giết sinh vật, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo luân hồi đền mạng.
- Gặp
kẻ phung phí của cải bừa bãi, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo thiếu thốn đủ đường.
Những chúng sinh cõi Nam Diêm
Phù Đề từ thân, khẩu, ý nghiệp ác kết tập, trăm nghìn muôn sự báo ứng như thế,
nay mới chỉ nói lược qua đó thôi. Nghiệp cảm chúng sinh cõi Diêm Phù Để khác
nhau như thế, nên Địa Tạng dùng trăm nghìn phương tiện giáo hóa cho họ. Những
chúng sinh ấy, trước phải chịu lấy các quả báo này, sau đọa địa ngục trải qua
nhiều kiếp không biết lúc nào mới được thoát ra, cho nên các ông bảo vệ muôn
dân hộ trì đất nước, chớ để cho những nghiệp chướng mê hoặc làm hại chúng sinh”.
Bốn ông Thiên Vương nghe rồi rơi
lệ, than thở, chắp tay lễ Phật mà lui. (1
vái) OOO
(KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN HẾT QUYỂN
THƯỢNG)
Trên cung
Trời Đao Lợi
Địa Tạng Bản
nguyện Kinh
Thần thông
Phật hiển hóa
Độ mê khắp
quần sinh
Đời ngũ
trược khó tỉnh
Ương ngạnh
lũ hữu tình
Ham vui
nên chịu khổ
Họa phúc đều
do mình.
Nam mô Thượng Trụ Thập phương
Phật. (3 lần) 1 vái OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN PHẨM THỨ NĂM: TÊN CÁC ĐỊA NGỤC
1 - Khi bấy giờ Ngài Phổ Hiền Bồ
tát bạch Địa Tạng rằng: “Thưa bậc nhân giả! Ngài vì Trời, Rồng, tám bộ lại cùng
hết thảy chúng sinh đời này, đời sau mà nói danh hiệu của những địa ngục là chỗ
thụ báo tội khổ chúng sinh ở cõi Sa Bà cùng Diêm Phù Đề và nói những sự quả báo
không lành, làm cho chúng sinh trong thời mạt pháp sau này biết rõ những quả
báo đó” Ngài Địa Tạng đáp: “Xin thưa nhân giả! Nay tôi nhờ có uy thần của Phật
cùng sức của Ngài, mà nói danh hiệu của các địa ngục cùng những tội báo và sự
ác báo”. O
2 - Xin thưa nhân giả! Ở về
phía đông Nam Diêm Phù Đề có một dãy núi tên gọi Thiết Vi, núi ấy tối om không
có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ngục lớn là Cực Vô Gián. Lại có địa ngục
gọi là A Tỳ
Lại có địa ngục gọi là Bốn Cạnh.
Lại có địa ngục gọi là Dao
Bay.
Lại có địa ngục gọi là Giáo
Đâm.
Lại có địa ngục gọi là Tên Lửa.
Lại có địa ngục gọi là Thổi Lửa.
Lại có địa ngục gọi là Núi Kẹp.
Lại có địa ngục gọi là Nhà Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Giường
Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Áo Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Áo Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Viên Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Xe Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Trâu Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Lừa Sắt.
Lại có địa ngục gọi là Thiên
Nhận.
Lại có địa ngục gọi là Khoét Mắt.
Lại có địa ngục gọi là Cày Lưỡi.
Lại có địa ngục gọi là Chém Đầu.
Lại có địa ngục gọi là Thiêu
Thân.
Lại có địa ngục gọi là Đồng
Sôi.
Lại có địa ngục gọi là Cột
Nóng.
Lại có địa ngục gọi là Cãi Cọ.
Lại có địa ngục gọi là Nóng Giận.
Ngài Địa Tạng Bồ Tát lại bạch
rằng: O
“Xin thưa nhân giả! Trong núi Thiết
Vi có nhiều địa ngục, vô số như thế nhiều không thể kể. Lại còn có những tên ngục
gọi là:
Địa ngục Kêu Gào, địa ngục Lôi
Lưỡi.
Địa ngục Cưa Răng, địa ngục Lột
Da,
Địa ngục Uống Máu, địa ngục
Phân Nước,
Địa ngục Đâm Ngược, địa ngục
Khoá Đồng,
Địa ngục Đốt Tay, địa ngục Đốt
Chân,
Địa ngục Nhả Lửa, địa ngục Giường
Lửa,
Địa ngục Hầm Lửa, địa ngục Núi
Lửa,
Địa ngục Đá Lửa, địa ngục Voi
Lửa,
Địa ngục Chó Lửa, địa ngục Ngựa
Lửa,
Địa ngục Trâu Lửa, địa ngục
Chim Lửa.
Những ngục như thế: Trong mỗi
ngục lớn có những ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến trăm
nghìn tên các địa ngục đều gọi khác nhau”. Ngài Địa Tạng bạch Đức Phổ Hiền rằng:
“Xin thưa nhân giả! Đó đều là do chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề làm những
điều ác, theo nghiệp chiêu cảm mà hiện ra những địa ngục như thế, nghiệp lực rất
lớn, ngang núi Tu Di, sâu như biển cả hay làm chướng đạo, vì thế chúng sinh chớ
nên coi thường những điều ác nhỏ cho là vô tội, sau khi chết rồi, dù cho tội nhỏ
như sợi tóc tơ cũng đều chịu báo, kể cả cha con là chỗ thân tình cũng phải mỗi
người đi theo mỗi ngả, dầu có gặp nhau cũng không thể chịu thay cho nhau được.
Nay tôi nhờ uy thần lực của Phật, nói qua tội báo ở trong địa ngục mong rằng
nhân giả tạm nghe lời đó”. Ngài Phổ Hiền đáp: “Tuy tôi từ lâu đã rõ tội báo
trong ba đường, ác, nhưng nay tôi muốn nhân giả nói ra để cho hết thảy chúng
sinh làm ác ở đời mạt pháp, nghe lời nhân giả mà biết quy y Giáo Pháp của Phật”.
O
3 - Ngài Địa Tạng nói: “Xin
thưa nhân giả! Những sự tội báo trong ngục hoặc như Địa ngục kéo lưỡi kể tội
lôi ra để cho trâu cày, hoặc có địa ngục moi tim kẻ tội cho Dạ Xoa ăn, hoặc có địa
ngục vạc dầu sôi sục nấu kẻ tội can, hoặc có địa ngục cột đồng cháy đỏ bắt kẻ tội
ôm, hoặc có địa ngục lửa mạnh phun ra phóng vào kẻ tội;
Hoặc có địa ngục lạnh như băng
giá
Hoặc có địa ngục phân nước vô
kể
Hoặc có địa ngục chông gai,
chuỳ sắt
Hoặc có địa ngục đâm nhiều
giáo lửa
Hoặc có địa ngục chỉ đập ngực,
lưng
Hoặc có địa ngục chỉ đốt chân,
tay
Hoặc có địa ngục cho rắn sắt cắn
Hoặc có địa ngục chó sắt xua
đuổi
Hoặc có địa ngục buộc vào lừa
sắt.
Xin thưa nhân giả! Những nghiệp
báo ấy trong mỗi địa ngục đều có trăm nghìn thứ đồ hành tội bằng đồng, bằng sắt,
bằng đá, bằng lửa. Mỗi thứ đồ ấy đều do hành nghiệp, tội của chúng sinh mà cảm ứng
ra. Nếu tôi nói rộng những sự tội báo ở trong địa ngục thì trong mỗi ngục lại
còn trăm nghìn thứ khổ sở nữa, huống chi nhiều ngục! Nay tôi thừa sự uy thần của
Phật và nhân giả hỏi, mà nói lược qua, nếu nói rộng ra dẫu cho cả kiếp cũng
không hết được”. (1 vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN PHẨM THỨ SÁU: NHƯ LAI TÁN THÁN CÔNG
ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
1 - Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn
chuyển thân phóng hào quang lớn, chiếu khắp muôn ức Hằng hà sa cõi nước của chư
Phật, xuất đại âm thanh mà bảo hết thảy các Đại Bồ Tát, Thiên, Long, quỷ, Thần,
Nhân và Phi Nhân ở các cõi rằng: “Nay lắng nghe Ta, khen ngợi bày tỏ về công đức
của Địa Tạng Bồ Tát đã hiện ra khắp mười phương thế giới, từ bi thần lực không
thể nghĩ bàn để độ hết thảy tội khổ quần mê. Sau Ta diệt độ, thời hàng Bồ Tát Đại
sĩ các ông cùng với Trời, Rồng, Quỷ, Thần, nhân đẳng, cần rộng phương tiện hộ vệ
Kinh này, làm cho tất cả mọi loài chúng sinh đều thoát hết khổ vui chứng Niết
Bàn”. O
2 - Phật nói dứt lời, trong Pháp
Hội có một vị Bồ Tát hiệu là Phổ Quảng cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Nay
con nghe Đức Thế Tôn khen ngợi Địa Tạng Bồ Tát có sức uy thần không thể nghĩ
bàn. Kính xin Thế Tôn! Hãy vì chúng sinh đời mạt Pháp này, mà nói rõ cho những
sự nhân quả của Ngài Địa Tạng đã làm lợi ích cho khắp Trời, người khiến cho các
hàng Thiên, Long, tám bộ cùng các chúng sinh ở đời sau này kính vâng lời Phật”.
Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Phổ
Quảng cùng tứ chúng rằng: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói qua những việc phúc
đức của Địa Tạng làm lợi ích nhân, Thiên, để các ông nghe”. Phổ Quảng Bồ Tát bạch
Đức Phật rằng: “Kính vâng! Lạy Phật! Chúng con muốn nghe”. O
3 - Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng
Bồ Tát: “Về đời sau này, nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu của
Địa Tạng Bồ Tát, hoặc là chắp tay, hoặc là khen ngợi, hoặc là đỉnh lễ, hoặc là
mếm mộ, thì người ấy thoát khỏi mọi tội lỗi trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng ơi! Nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào tô vẽ hình tượng hoặc lấy đất, đá, keo, sơn, vàng, bạc, đồng,
sắt, đắp tượng Địa Tạng Bồ Tát chiêm ngưỡng lễ bái, thì người ấy được trăm lần
sinh lên ba ba cõi Trời, vĩnh viễn không đọa vào đường ác nữa. Giả thử hưởng hết
phúc ở cõi Trời lại xuống nhân gian cũng được làm Vua không mất lợi lớn. O
4 - Nếu có người nữ chán ghét
thân nữ tận tâm cúng dàng tượng Địa Tạng bằng tranh ảnh, đất, đá, keo sơn,
vàng, bạc, đồng, sắt, ngày ngày như thế không hề chán nản, thường đem hương
hoa, các thứ ăn uống, mũ áo lụa là, tràng phan, tiền bạc, bảo vật dâng cúng,
thì thiện nữ ấy sau khi hết một báo thân nữ này, thì muôn kiếp sau chẳng còn phải
sinh vào cõi phụ nữ, huống là phải chịu làm thân nữ ư! Trừ khi vì lòng từ bi phát
nguyện, cần thụ thân nữ để độ chúng sinh.
Như vậy cho thấy, nhờ sức cúng
dàng Địa Tạng Bồ tát và sức công đức cho nên hàng trăm nghìn vạn ức kiếp chẳng
còn phải chịu làm thân nữ nữa. O
5 - Lại thế này nữa, Phổ Quảng Bồ Tát! Nếu có người nữ chán
thân xấu xí và nhiều bệnh tật, chỉ cần thành tâm chiêm lễ trước tượng Địa Tạng Bồ
Tát lâu bằng bữa ăn, người ấy trong hàng nghìn vạn kiếp sau, tất sinh làm người
đầy đủ tướng mạo không có bệnh tật. Nếu như người nữ thân xấu xí kia không chán
thân nữ, thì muôn ức kiếp thường được làm thân công chúa, vương phi dòng dõi nhà
quan, hay con Trưởng Giả, hình vóc đoan trang, tướng mạo xinh đẹp, đó là bởi
lòng chí thành kính lễ Địa Tạng Bồ tát cho nên được hưởng phúc báo như thế. O
6 - Lại nữa Phổ Quảng! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào thường
đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát dâng tấu âm nhạc ca hát tán thán, cúng dàng
hương hoa cho đến khuyên hóa, một hay nhiều người cũng làm như thế thì những
người ấy ngay trong đời này và cả đời sau thường được trăm nghìn các vị Quỷ, Thần,
ngày đêm hộ vệ, không cho những sự ác lọt vào tai, huống còn phải chịu những sự
tai vạ bất ngờ hay sao? O
7 - Lại còn đây nữa, Phổ Quảng Bồ Tát! Trong đời sau này nếu
có ác nhân, ác Thần, ác Quỷ, thấy có thiện nam, thiện nữ quy y cung kính tán
thán chiêm lễ hình tượng Địa Tạng Bồ tát mà lại dèm chê, báng bổ cho là không
có công đức, không lợi ích gì, hoặc nhe rằng cười, hoặc chê sau lưng, hoặc chê
trước mặt, xui người cùng chê, xui một người chê hay nhiều người chê, dù chỉ một
niệm sinh lòng dèm chê; những kẻ như thế, đến đời Hiền Kiếp khi nghìn ức Phật
nhập diệt qua rồi tội báo khinh chê vẫn còn bị đọa trong ngục A Tỳ chịu tội cực
khổ qua kiếp ấy rồi, thụ thân ngạ quỷ trải hàng nghìn kiếp, lại làm súc sinh
qua nghìn kiếp nữa mới được làm người. Dù được làm người cũng hạng hèn hạ, các
căn không đủ, bị nhiều nghiệp ác ràng buộc vào mình, chẳng được bao lâu lại đọa
đường ác. Lại Phổ Quảng này! Chỉ vì khinh chê người khác cúng dàng, mà còn mắc
phải tội báo như thế, huống chi tự mình sinh tâm ác kiến phá huỷ thì sao? O
8 - Này Phổ Quảng ơi! Nếu đời sau này có thiện nam nào hay
thiện nữ nào, ốm đau lâu ngày, liệt giường liệt chiếu cầu sống chẳng được, cầu
chết chẳng được, hoặc đêm nằm mộng thường thấy Quỷ, Thần hay là người thân, dẫn
đi đường hiểm, hoặc bị bóng đè, hoặc nghe ác Quỷ; ngày tháng năm dài chuyển
thành bệnh trọng; trong lúc ngủ mê kêu gào thê thảm chẳng được yên vui. Đó đều
là vì đang xét tội nghiệp, chưa định nặng nhẹ, cho nên muốn chết không chết đi
được, muốn khỏi không khỏi; kẻ phàm mắt tục không rõ việc ấy. Phải nên đến trước
tượng Phật, Bồ Tát, lên tiếng đọc tụng Kinh này một biến, hoặc lấy các thứ của
kẻ bệnh nhân thường hay ưa thích như là châu báu, ruộng vườn, nhà cửa, đối trước
người bệnh mà nói to rằng: “Chúng con tên là … Nay vì bệnh nhân ... Đối trước
Kinh tượng, đem các thứ này cúng dàng Kinh tượng, hoặc tạo Kinh tượng Phật và Bồ
Tát, hoặc xây chùa, Tháp, hoặc mua dầu đèn, hoặc cúng Thường trụ”. Bạch lên ba
lần khiến cho người bệnh nghe tiếng như thế; giả thử thần thức của kẻ bệnh nhân
đã bị phân tán hay đã tắt nghỉ, thì hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy
ngày, cứ lớn tiếng bạch và tụng Kinh này, kẻ bệnh nhân đó sau khi chết rồi dù
cho từ trước có những tội nặng đọa ngục Vô Gián cũng được thoát hẳn, sinh vào cảnh
nào, cũng thường nhớ biết kiếp trước của mình, huống chi thiện nam hay thiện nữ
nào, tự mình biên chép, hoặc là bảo người biên chép Kinh này, hoặc là tự mình
hay bảo người tạo hình tượng Bồ Tát, người đó tất được phúc báo lớn lao.
Này Phổ Quảng ơi! Vì thế nên ông thấy có người nào đọc tụng
Kinh này, cho đến chỉ trong một niệm khen ngợi, hoặc là cung kính đối với Kinh
này, thời ông nên dùng trăm nghìn phương tiện khuyên dạy người đó, một lòng
chăm chỉ, chớ đừng chán bỏ, thì ngay đời này và cả đời sau, sẽ được trăm nghìn
vạn ức công đức không thể nghĩ bàn. O
9 - Lại thế nữa, Phổ Quảng Bồ Tát! Nếu như chúng sinh trong
đời sau này; hoặc khi mơ mộng thấy các Quỷ, Thần và các hình lạ, hoặc là buồn
bã khóc lóc thở than, rầu rĩ kêu van, hãi hùng sợ sệt. Đó đều là do họ hàng mẹ
cha, hoặc là con cái vợ chồng nội ngoại về những kiếp xưa, hoặc là một đời,
trăm đời, nghìn đời, đương đọa ngả ác chưa được ra thoát, không chỗ trông mong
vào phúc lực nào để cứu khổ não, nên mới tìm về cầu cứu những người quyến thuộc
kiếp xưa, khiến làm phương tiện cầu nguyện thoát cho khỏi các đường ác. Này Phổ
Quảng ơi! Ông nên dùng sức uy thần khiến cho các quyến thuộc ấy đều đối trước
tượng chư Phật, Bồ tát, dốc lòng thành kính tụng đọc Kinh này, hoặc thỉnh người
đọc đủ số ba biến cho đến bảy biến. Như vậy thì những quyến thuộc đang mắc
trong đường ác kia, nghe tiếng tụng Kinh, khi đủ số biến, liền được giải thoát.
Từ đấy trở đi, trong lúc chiêm bao, không còn mơ thấy ai hiện về nữa. O
10 - Lại nữa Phổ Quảng! Nếu đời sau này có những hạng người
nô tỳ hèn hạ, cho đến những người mất quyền tự do, đều biết rõ vì nghiệp xưa của
mình đời trước gây ra, nay cần sám hối, thời phải chí tâm chiêm lễ hình tượng Địa
Tạng Bồ tát, trong cả bảy ngày và niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ tát đủ một vạn lần,
thì những hạng ấy, khi chịu hết nghiệp báo thân hèn hạ, trong đời này rồi, về
trăm nghìn kiếp ở vào đời sau, thường sinh vào hàng dòng dõi tôn quý, không còn
bao giờ phải sa đọa vào ba đường ác nữa. O
11 - Lại nữa Phổ Quảng! Về đời sau này, nơi Diêm Phù Đề,
hàng Sát Đế Lợi và Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, cả các bậc ấy, cùng dòng họ
khác, và các dân tộc, như có người nào mới sinh nở được, bé trai, bé gái trong
vòng bảy ngày, sớm vì đứa bé mà tụng Kinh điển không xiết nghĩ bàn, lại vì đứa
bé mà niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ tát, đủ một vạn lần, nếu được như vậy, thời đứa
bé đó dù cho kiếp trước có gây tội chi, đều được giải thoát, đứa bé yên ổn, vui
vẻ dễ nuôi, lại được sống lâu. Nếu như đứa bé kiếp xưa sẵn có phúc đức thụ
sinh, càng thêm vui hơn, được sống lâu hơn. O
12 - Lại thế này nữa Phổ Quảng Bồ tát! Về đời sau này, trong
tháng những ngày mồng một, mồng tám, mười tư, mười rằm, mười tám, hai ba, hai bốn,
hai tám, hai chín, ba mươi, đó là những ngày kết tập xử tội, định nghiệp nặng
nhẹ. Các chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Đề suy nghĩ hành động, đều là nghiệp cả, đều
là tội cả huống hồ lại còn phóng túng giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ đủ
điều, gây ra trăm nghìn thứ tội nữa ư.
Nếu chúng sinh nào mười ngày trai ấy, đối trước hình tượng
chư Phật, Bồ Tát và các Thánh Hiền, tụng đọc một biến trong khóa Kinh này, thì
khắp đông, tây, nam, bắc, trong vòng một trăm do tuần, đều hết tai nạn. Ngay
trong nhà ấy, lớn bé già trẻ, từ đó về sau, hàng trăm nghìn năm, xa lìa đường
ác; trong mười ngày trai, mỗi ngày tụng đọc một biến Kinh này, thì hiện đời
này, nhà ấy không mắc những bệnh đột xuất, cơm ăn, áo mặc, đều được dư thừa.
Này nữa Phổ Quảng! Vì thế biết rằng: Địa Tạng Bồ tát có sức uy thần vô cùng lớn
lao, trăm nghìn vạn ức những sự lợi ích khó nói hết ra. Chúng sinh trong cõi Nam
Diêm Phù Đề có nhân duyên lớn với Ngài Địa Tạng, cho nên khi nghe thấy danh Bồ
Tát, thấy tượng Bồ tát cho đến chỉ nghe dù là ba chữ năm chữ Kinh này hoặc một
bài kệ hay một câu văn thì chúng sinh đó ngay đời hiện tại được vui lạ thường,
trăm nghìn vạn kiếp về đời vị lai được đẹp thân hình, lại được thác sinh vào
nhà tôn quý. O
13 - Khi bấy giờ Ngài Phổ Quảng Bồ Tát! Nghe Đức Như Lai
khen Ngài Địa Tạng nghe xong Bồ Tát liền quỳ chắp tay bạch Đức Phật rằng: “Lạy
Đức Thế Tôn! Con vẫn biết rằng bậc Đại sĩ ấy có sức uy thần khôn xiết nghĩ bàn
và sức thệ lớn, nguyện đã từ lâu. Nay con vì muốn chúng sinh đời sau khiến cho
được biết những sự lợi ích, cho nên con mới hỏi Đức Như Lai. Vâng! Con đã nghe,
nay xin lĩnh thụ. Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên là Kinh gì xin bảo cho
con về cách lưu hành truyền bá thế nào?”
Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ tát! “Kinh này cả thảy có ba
danh hiệu. Một gọi là “Kinh Địa Tạng Bản nguyện”. Hai gọi là “Kinh Địa Tạng Bản
Hạnh”. Ba gọi là “Kinh Địa Tạng Bản Thệ Lực”. Nguyên vì Địa Tạng từ bao đời kiếp
xa xưa tới nay phát nguyện rộng lớn làm lợi chúng sinh, cho nên các ông phải
theo nguyện mà lưu hành truyền bá”.
Bồ Tát Phổ Quảng nghe rồi tin nhận, chắp tay cung kính lễ Phật
mà lui. (1 vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ BẢY: LỢI ÍCH CẢ KẺ CÒN NGƯỜI MẤT
1 - Khi bấy giờ Đại Bồ Tát Địa Tạng bạch Đức Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh cõi Diêm Phù Đề cất nhắc tay chân, động tâm suy,
nghĩ đều sinh tội cả. Nếu gặp điều lợi, phần nhiều thoái mất tâm tốt ban đầu;
hoặc gặp ác duyên, thì càng thêm ác, những hạng người ấy như đội đá nặng, đi
trên bùn lầy, đã nặng càng nặng, chân lún xuống sâu, ngập chìm khốn đốn. Nếu những
kẻ đó, gặp thiện tri thức, đội bớt đá cho, hoặc đội cả cho, mà người tri thức lại
có sức khoẻ, dìu đỡ kẻ đó bước được vững vàng tới chỗ bằng phẳng, thời phải nên
nghĩ đến đường xấukia mà đừng trở lại đường hiểm ấy nữa.
Bạch Đức Thế Tôn! Những chúng sinh ấy quen theo thói ác, từ
việc nhỏ ít cho đến số nhiều không lường đếm được, những chúng sinh ấy đã nhiễm
thói ác thì khi lâm chung, họ hàng nam nữ, nên vì người ấy, tu tạo phúc lành, để
giúp đỡ thêm tiền đồ cho họ. Như treo các thứ tràng phan, bảo cái, đốt đèn thắp
hương, chuyển đọc Kinh này, cúng dàng tượng Phật, và niệm Phật hiệu, niệm danh Bồ Tát, danh Bích Chi Phật, làm cho mỗi
câu, mỗi một danh hiệu, lọt vào lỗ tai người sắp mệnh chung, khi ấy thần thức
còn nghe biết được. Cứ theo nghiệp ác của các chúng sinh đã gây tạo ra, xét về
quả báo đáng lẽ người đó phải đọa đường ác, xong nhờ họ hàng, đã vì người đó,
làm nhân Thánh Đạo, cho nên hết thảy các tội báo kia, đều được tiêu diệt.
Nếu vì kẻ kia, sau khi đã chết trong bốn chín ngày làm nhiều
việc thiện, thì có thể khiến cho chúng sinh ấy thoát hẳn đường ác, được sinh
cõi Trời, hoặc trong cõi người, hưởng thụ những sự cực kỳ vui thú, mà cả họ
hàng hiện tại cũng được lợi ích vô cùng. Vì thế con nay, đối trước Đức Phật
cùng với Trời, Rồng và tám bộ chúng, nhân và phi nhân khuyên các chúng sinh cõi
Diêm Phù Đề, khi có người mất, phải nên cẩn thận chớ có sát sinh, chớ gây nghiệp
ác, cũng đừng bày biện tế lễ Quỷ, Thần, kêu cầu ma quái. Lý do vì sao? Vì việc
giết hại cho đến tế lễ, không được phúc báo chẳng lợi ích gì cho người chết cả,
mà chỉ có kết duyên tội nặng thêm cho người chết đó. Giả thử đời nay hay là đời
sau, vong nhân ấy được dự phẩm quả Thánh, đáng được sinh vào cõi Nhân, cõi
Thiên, mà chỉ tại vì trong lúc lâm chung, bị người họ hàng gây những nhân ác,
cũng có thể làm cho vong nhân ấy bị mắc vạ lây phải đi đối chứng, chậm sinh cảnh
lành. Huống kẻ chết kia, khi sống ở đời, chưa từng làm được một chút thiện căn,
cho nên bản nghiệp cứ thế dắt đi, đọa vào đường ác. Vậy họ hàng nào lại nỡ làm
cho tội nghiệp người ấy phải gánh nặng thêm. Ví như có người từ nơi xa đến đói
ăn ba ngày, mà đồ mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp người quen, lại nhờ mang
hộ ít đồ vật nữa, vì thế lại nặng càng khốn khổ thêm.
Bạch Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh cõi Diêm Phù Đề, trong
Pháp Phật dạy, nếu có thể làm mọi việc thiện nhỏ chỉ bằng sợi lông, giọt nước,
hạt cát, hay bằng mảy bụi, như thế hết thảy đều được lợi ích.
2 - Khi Ngài Địa Tạng bạch lời đó xong, trong Pháp Hội có một
vị Trưởng Giả tên là Đại biện! Ông Trưởng Giả này từ lâu đã chứng được quả vô sinh,
vì chưng ông muốn hóa độ Thập phương nên mới hiện ra làm thân Trưởng Giả, chắp
tay cung kính hỏi Ngài Địa Tạng: “Xin thưa Đại sĩ! Trong cõi Diêm Phù có chúng
sinh nào sau khi mất rồi, mà trong họ hàng có người lớn nhỏ, biết vì người mất
đó làm việc công đức cho đến làm chay, làm các nhân lành, thời người mất đó, có
được lợi ích và giải thoát không?”
3 - Ngài Địa Tạng đáp: “Nay tôi nhờ sức uy thần của Phật,
xin vì chúng sinh đời nay đời sau mà nói việc đó. Này ông Trưởng Giả tất cả
chúng sinh hiện tại vị lai lúc sắp mệnh chung, mà được nghe một danh hiệu Đức Phật,
danh hiệu Bồ Tát hay một danh hiệu
của Bích Chi Phật, thời không kể gì, có tội hay không, đều được giải thoát.
Nếu có nam giới hay nữ giới nào, trong lúc còn sống, không tạo
phúc lành, lại gây nhiều tội, sau khi mất đi họ hàng lớn nhỏ, biết vì người ấy
làm việc phúc lợi và các việc Phật, thì trong bảy phần số lượng công đức người
chết chỉ được hưởng có một phần, còn lại sáu phần người làm được hưởng. Vì thế
cho nên, thiện nam, thiện nữ đời này, đời sau nghe lời nói đó, nên gắng công tu
thì sẽ được hưởng trọn phần công đức.
Quỷ dữ vô thường, đột nhiên nó đến, thần hồn mờ mịt, chưa rõ
tội phúc, trong bốn chín ngày, như ngây như điếc, hoặc phải đến tòa, biện luận
nghiệp quả, khi thẩm định xong, thời phải theo nghiệp, mà đi thụ sinh. Trong
khi chưa biết sự thể ra sao, cũng đã phải chịu muôn nghìn sầu khổ, huống là bị
đọa vào các đường ác. Vong nhân mất đó khi chưa thụ sinh, trong bốn chín ngày,
lòng hằng mong mỏi, họ hàng cốt nhục làm các việc phúc, để cứu giúp cho; qua bốn
chín rồi, thời cứ theo nghiệp, mà đi thụ báo.
Nếu người mất đó, thuộc hạng tội thường, còn bị đọa hàng
trăm nghìn năm, không ngày giải thoát; nếu như kẻ phạm năm tội Vô Gián, đọa đại
địa ngục, thì muôn nghìn kiếp, chịu mãi khổ đau.
Lại nữa Trưởng Giả! Chúng sinh gây phạm tội nghiệp như thế,
sau khi mất rồi, họ hàng cốt nhục trong lúc làm chay cầu thêm phúc lành cho người
chết ấy, thì lúc chưa làm, hay lúc đang làm, nước gạo và rau, các thứ không được
đổ vãi xuống đất, cho đến thực phẩm chưa hiến cúng Phật và Thánh Hiền Tăng, thì
không được ăn, trước khi dâng cúng; nếu ăn trái phép và làm không sạch, thì người
chết kia chẳng được lợi lạc. Nếu cúng Phật, Tăng, những thứ tinh sạch, thì
trong bảy phần số công đức đó, người chết cũng có hưởng được một phần.
Này ông Trường Giả! Vì thế cho nên chúng sinh trong cõi Nam
Diêm Phù Đề; nếu vì cha mẹ, hay kẻ họ hàng sau khi chết rồi, mà muốn làm chay,
dốc lòng cúng dàng được như vậy thì kẻ còn người mất đều được lợi ích”.
Khi Ngài Địa Tạng nói lời này xong, cung Trời Đao Lợi có
hàng nghìn vạn ức na do tha Quỷ, Thần trong cõi Nam Diêm Phù Đề hết thảy phát
tâm Bồ Đề Vô Thượng.
Còn ông Trưởng Giả Đại biện hoan hỷ, vâng lời dạy bảo, làm lễ
mà lui. (1 vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ TÁM: CÁC VUA DIÊM LA
TÁN THÁN CÔNG ĐỨC
1 - Lúc bấy giờ, trong núi Thiết Vi, có Vô lượng Quỷ Vương,
các vua Diêm La, kết tập cùng lên cung Trời Đao Lợi, đến chỗ Đức Phật. Các Quỷ
Vương đó tên hiệu gọi là:
Quỷ Vương Ác độc,
Quỷ Vương Đa ác,
Quỷ Vương Đại tránh,
Quỷ Vương Bạch hổ,
Quỷ Vương Huyết hổ,
Quỷ Vương Xích hổ,
Quỷ Vương Gieo tai họa,
Quỷ Vương Phi thân,
Quỷ Vương Điện quang,
Quỷ Vương Nanh sói,
Quỷ Vương Ngàn mắt,
Quỷ Vương Ăn thú vật,
Quỷ Vương Vác đá,
Quỷ Vương Chủ hao tổn,
Quỷ Vương Chủ tai họa,
Quỷ Vương Chủ phúc,
Quỷ Vương Chủ thực phẩm,
Quỷ Vương Chủ tài sản,
Quỷ Vương Chủ gia súc,
Quỷ Vương Chủ loài chim,
Quỷ Vương Chủ loài thú,
Quỷ Vương Chủ yêu mỵ,
Quỷ Vương Chủ sản dục,
Quỷ Vương Chủ sinh mệnh,
Quỷ Vương Chủ tật bệnh,
Quỷ Vương Chủ hiểm nguy,
Quỷ Vương Ba mắt,
Quỷ Vương Bốn mắt,
Quỷ Vương Năm mắt,
Quỷ Vương Kỷ Lợi Thất,
Quỷ Vương Đại Kỷ Lợi Thất,
Quỷ Vương Kỷ Lợi Xoa,
Quỷ Vương Đại Kỷ Lợi Xoa,
Quỷ Vương A Na Tra,
Quỷ Vương Đại A Na Tra.
Các đại Quỷ Vương như thế đều cùng hết thảy trăm nghìn tiểu
Quỷ Vương khác, ở khắp trong cõi Nam Diêm Phù Đề đều có chức trách, đều có trụ
sở, những Quỷ Vương cùng các vua Diêm La nhờ uy thần Phật và sức của Ngài Địa Tạng
Bồ tát cùng lên được tới cung Trời Đao Lợi, đứng qua một phía.
2 - Khi bấy giờ vua Diêm La quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Lạy
Đức Thế Tôn! Nay chúng con cùng các vị Quỷ Vương, đều được nương nhờ uy thần của
Phật và Ngài Địa Tạng, lại nhờ đã gây được chút duyên lành, nên mới được đến
cung Trời Đao Lợi, dự Đại hội này. Nay chúng con có chút việc nghi ngờ, muốn được
bạch hỏi, cúi xin Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con biết”.
Đức Phật bảo với vua Diêm La rằng: “Ông cứ việc hỏi; Ta sẽ
vì ông mà dạy rõ cho”.
Lúc bấy giờ vua Diêm La chiêm lễ Đức Thế Tôn xong, ngoảnh lại
ngưỡng trông Địa Tạng Bồ tát, rồi bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Con đã nhận
thấy Địa Tạng Bồ tát dùng nhiều phương tiện, cứu khổ chúng sinh khắp trong sáu
đường, mà không mỏi mệt.
Bậc Đại Bồ Tát,
có sức thần thông cứu khổ khôn xiết nghĩ bàn như thế, nhưng sao chúng sinh vừa
thoát khỏi tội chẳng được bao lâu lại phải bị đọa vào trong đường ác.
Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ tát đã có sức thần khôn xiết
như thế, tại sao chúng sinh chẳng chịu nương theo đường thiện để được vĩnh viễn
giải thoát xin Đức Thế Tôn giảng cho con rõ”.
3 - Đức Phật lại bảo vua Diêm La rằng: “Chúng sinh ở cõi Nam
Diêm Phù Đề căn tính ương ngạnh, thật khó dạy dỗ, thật khó uốn nắn. Vị Bồ tát
đây, trải trăm nghìn kiếp, đã từng cứu bạt những chúng sinh ấy cho sớm giải
thoát”. Những kẻ tội báo, dù cho bị đọa vào đường ác lớn, Địa Tạng Bồ tát cũng
dùng đủ sức phương tiện, nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, khiến cho nhớ rõ được
việc đời trước. Tại vì chúng sinh ở cõi Phù Đề kết tập ác nặng, cho nên đường
ác hết ra lại vào, khiến cho Bồ Tát khó nhọc hết kiếp làm việc cứu độ.
Ví như có người quên mất nhà mình lạc vào đường hiểm, trong
đường hiểm ấy có nhiều Dạ Xoa, hổ sói, sư tử, trăn, rết, rắn độc. Người quên
nhà ấy đang đi đường hiểm, chỉ giây phút nữa là sẽ bị hại, may có một vị tri thức
hiểu biết, nhiều phép thuật lạ, có thể ngăn cản những quỷ Dạ Xoa, các loài độc
hại. Tri thức chợt gặp người quên nhà kia đang vào đường hiểm, bèn vội bảo rằng:
“Ô hay! Ông kia! Vì lý do gì mà vào đường này, liệu có phép lạ ngăn được các
loài độc hại ấy không?”. Người lạc đường đó, bỗng nghe nói thế, mới biết đường
hiểm, vội lui trở lại, cầu ra khỏi đường, vị thiện tri thức, nắm tay dắt dìu, dẫn
người lạc đó, ra ngoài đường hiểm, khỏi sự độc hại, đến con đường lành, giúp
cho yên ổn, rồi mới bảo rằng: “Ông thấy sợ chưa? Từ nay trở đi, chớ có bước
chân vào đường này nữa, nếu đã bước vào, khó mà ra được, lại còn tổn hại cả
tính mạng kia”. Người lạc đường ấy sinh lòng cảm phục, khi sắp chia tay, tri thức
lại dặn: “Nếu ông có gặp những ai quen biết, cùng người đi đường, dù nam hay nữ,
cũng nên mách bảo cho họ biết rằng, con đường đó có nhiều sự độc ác, hại đến
thân mệnh, chớ để cho họ tự vào chỗ chết”.
Vì thế nên Ngài Địa Tạng Bồ Tát đủ đức Từ Bi cứu vớt chúng
sinh mắc tội khổ não, muốn cho chúng được sinh cõi Trời, người, hưởng sự vui sướng.
Những kẻ tội đó, biết rõ sự khổ trong đường ác nghiệp, khi được thoát ra không
bao giờ còn dám quay vào nữa. Như người quên nhà bị lạc đường kia, gặp thiện
tri thức, dắt cho ra khỏi, không bao giờ còn bị lạc vào nữa, gặp thấy người
khác, lại bảo người ta, chớ vào đường ấy. Tự nói rằng mình mê nên lạc đường,
nay được thoát rồi, chẳng còn lạc nữa, nếu còn lạc vào, tất là còn mê, không biết
đó là con đường hiểm nạn, mà mình đã từng sa lạc vào rồi, suýt thời mất mạng.
Cũng như chúng sinh, bị đọa đường ác, Địa Tạng Bồ Tát, dùng sức phương tiện,
khiến được thoát ra, mà được sinh lên cõi Trời, cõi người, rồi lại tái đọa. Nếu
nghiệp kết nặng, mãi đọa địa ngục không có ngày ra.
4 - Khi bấy giờ có Ác Độc Quỷ Vương, chắp tay cung kính bạch
Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Quỷ Vương chúng con, số đông vô lượng, ở cõi Diêm
Phù, hoặc có vị làm lợi ích cho người, hoặc có vị làm tổn hại cho người, mỗi vị
một khác, đều không giống nhau, lại vì nghiệp báo, khiến quyến thuộc con, dạo
các thế giới, lành ít dữ nhiều, khi đi qua nhà, buồng, phòng người ta, hoặc là
thành ấp, xóm làng, trại, vườn, nếu thấy có người nam hay nữ nào, dầu chỉ làm
được một việc thiện nhỏ, như treo một lá phan, một bảo cái, ít hương, ít hoa,
cúng dàng tượng Phật và tượng Bồ tát, hoặc chuyển đọc Kinh, một câu văn này,
hay một bài kệ, đốt hương cúng dàng, thì hàng Quỷ Vương chúng con kính lễ người
đó cũng như kính lễ chư Phật đời xưa, đời nay và đời sau vậy. Chúng con truyền
cho các hàng tiểu quỷ có uy lực lớn và các Thổ Địa, có phần trách nhiệm hộ vệ ở
đó, giữ gìn không để cho các việc dữ, tai nạn đột xuất, bệnh tật hiểm nghèo,
cho đến những việc chẳng được như ý, xảy ra ở gần những khu nhà ấy, huống là
còn vào đến cửa được ư”.
Đức Phật khen ngợi bảo Quỷ Vương rằng: “Hay thay! Hay thay!
Các ông cùng với các vua Diêm La hãy hộ vệ cho những người nam giới, nữ giới
như thế! Ta cũng truyền cho các vị Vua Trời Phạm Vương, Đế Thích hộ vệ các ông”.
5 - Khi Đức Phật nói những lời ấy xong, trong Pháp Hội có một
vị Quỷ Vương tên là Chủ Mệnh bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay cái
nghiệp duyên căn bản của con chuyên chủ coi về tuổi thọ của người cõi Diêm Phù
Đề, khi sinh, khi tử, con đều chủ trương, cứ như bản nguyện của con thực có lợi ích rất lớn, chỉ vì chúng sinh
không hiểu ý con, đến khi sinh tử cầu chẳng được yên, tại làm sao vậy?
6 - Vì rằng những người cõi Diêm Phù Đề trước khi sinh nở,
chẳng kể vợ chồng nên làm việc thiện, để thêm phúc đức lợi ích trong nhà, khiến
thần Thổ Địa vô cùng mừng rỡ thưởng ủng hộ cho cả hai mẹ con đều được yên ổn, họ
hàng cũng được thêm phần lợi ích, hoặc sau khi sinh nên phải cẩn thận đừng giết
hại vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho sản phụ ăn, và cũng chớ nên hội
tụ họ hàng, ăn uống rượu thịt, ca nhạc, đàn hát, khiến cho mẹ con không được
yên vui. Vì sao như thế? Vì lúc sinh nở nguy hiểm khó khăn, có nhiều ác quỷ,
Tinh, Mỵ, Vọng, Lượng, muốn ăn tinh huyết, thì con sớm sai Thần Linh Thổ Địa
giúp cho mẹ con người ấy yên lành và được lợi ích. Gia đình người ấy, thấy mình
được hưởng những sự yên ổn vui vẻ như thế, đáng lẽ phải nên làm điều phúc lành,
đền ơn Thổ Địa. Trái lại họ ham giết hại súc vật, thiết đãi họ hàng, bởi những
lẽ ấy, mình tự gây vạ, phải chịu lấy vạ, mẹ con tổn hại, lắm sự oan gia.
7 - Lại người trong cõi Nam Diêm Phù Đề đến lúc mệnh chung,
bất luận người lành hay là kẻ dữ, con đều không muốn cho họ bị đọa vào các đường
ác, huống chi người nào trong lúc sinh thời biết tu tạo phúc, lại được tăng sức
hộ vệ của con.
Cõi Diêm Phù Đề những người làm thiện đến lúc mệnh chung, mà
cũng còn có trăm nghìn quỷ thần ở các ngả ác, hoặc biến hiện ra hình tướng mẹ
cha hay người quyến thuộc, lừa gạt dẫn dắt hồn người chết kia khiến vào đường
ác, huống chi những kẻ trong lúc sinh thời đã gây tội ác.
Bạch Đức Thế Tôn! Những kẻ nam giới hay là nữ giới cõi Diêm
Phù Đề đến khi sắp chết, thần thức hôn mê, không phân biệt được điều lành điều
dữ, cho đến tai mắt, không còn thấy, nghe, thì hàng thân quyến, phải nên lập
đàn mà cúng dàng lớn, chuyên tụng tôn Kinh, niệm danh hiệu Phật và hiệu Bồ Tát,
tu tạo thiện duyên phúc lành như thế, có thể khiến cho vong giả giải thoát khỏi
những đường ác, các thần ma quỷ đều phải tránh xa.
Lạy Đức Thế Tôn! Hết thảy chúng sinh khi sắp mệnh chung, nếu
như được nghe chỉ một danh hiệu một vị Phật nào, một Bồ Tát nào, hoặc một câu
văn hay một bài Kệ, Kinh điển Đại Thừa, con xem thấy những hạng người như thế,
trừ hạng bị phạm năm tội Vô Gián, còn hạng tội nhỏ đáng lẽ bị đọa liền được giải
thoát”.
8 - Đức Phật bảo Chủ Mệnh Quỷ Vương rằng: “Vì ông có lòng đại
từ đại bi nên đã rộng phát thiện nguyện như thế, để cứu chúng sinh trong khi
sinh tử. Về đời sau này, nếu có người nam hay người nữ nào đến lúc sinh tử, thì
ông đừng nhãng quên bản nguyện ấy,
khiến cho hết thảy đều được giải thoát, mãi mãi yên vui”.
Chủ Mệnh Quỷ Vương bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Xin đừng bận tâm, trọn đời của con luôn luôn cứu hộ chúng sinh ở cõi Nam Diêm
Phù Đề, khi sinh khi tử, đều được an vui.
Con xin nguyện rằng: Các chúng sinh kia, khi sinh khi tử,
tin theo lời con, thì không một ai mà không giải thoát, được lợi ích lớn”.
9 - Bấy giờ Đức Phật Bảo Ngài Địa Tạng Đại Bồ Tát rằng: “Ông Đại Quỷ Vương chủ thọ
mệnh đây, đã từng trải qua hàng trăm nghìn kiếp làm Đại Quỷ Vương, cứu hộ chúng
sinh trong lúc sinh tử; bậc Đại sĩ ấy, vì lòng từ bi, phát nguyện làm thân Đại
Quỷ Vương, chứ thật đúng ra không phải quỷ đâu, sau đây, qua một trăm bảy mươi kiếp,
ông đó sẽ được thành Phật, hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp hiệu An Lạc, nước gọi
Tịnh Trụ, tuổi thọ của Ngài không thể tính kiếp”.
Này Địa Tạng ơi! Công việc của ông Đại Quỷ Vương này không
thể nghĩ bàn, cõi Trời, cõi người, được vị ấy độ, cũng nhiều vô kể. (1 vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ CHÍN: XƯNG DANH HIỆU
CHƯ PHẬT
Khi bấy giờ Ngài Địa Tạng Bồ tát bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn! Nay con xin vì chúng sinh đời sau, mà nói rõ ràng các sự lợi ích khiến
cho bọn họ trong vòng sinh tử được lợi ích lớn. Xin Đức Thế Tôn cho phép con
nói”.
Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát: “Nay ông muốn khởi tâm từ
cứu vớt hết thảy chúng sinh trong sáu đường khổ, mà nói những sự chẳng thể nghĩ
bàn, nay chính là lúc ông nên nói đi. Nếu ông sớm làm xong bản nguyện đó, dù ngay bây giờ, tôi nhập
Niết Bàn cũng không còn phải lo đến chúng sinh, đời này, đời sau”.
Địa Tạng Bồ tát bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vô lượng
số kiếp về thuở xa xưa có Phật ra đời danh hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Nếu có
người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, lòng tạm cung
kính, liền được siêu thoát tội nặng sinh tử trong bốn mươi kiếp, huống chi lại
còn vẽ đắp hình tượng tán thán cúng dàng, thì người ấy được vô biên phúc đức.
Lại Hằng hà sa về kiếp xa xưa, cũng có Đức Phật ra đời hiệu
là Bảo Thắng Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của
Đức Phật đây, chỉ trong giây lát phát tâm quy y, thì người ấy tu đến ngôi Vô
Thượng, chẳng bao giờ còn bị lui chuyển nữa.
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Ba Đẩu Ma Thắng Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây,
thoát qua lỗ tai, người này sẽ được nghìn lần sinh lên cõi Trời Lục Dục, huống
lại dốc lòng xưng niệm danh hiệu!
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Sư Tử Hống Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây,
phát tâm quy y, chỉ trong một niệm, thì người ấy được vô lượng chư Phật xoa đầu
thụ ký!
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Câu Lưu Tôn Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, dốc
lòng chiêm lễ hoặc lại tán thán, thì nơi Pháp Hội trong đời Hiền Kiếp của nghìn
Đức Phật, người ấy sẽ được làm Đại Phạm Vương và được thụ ký vào ngôi Vô Thượng.
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Tỳ Bà Thi Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây chẳng
còn sa đọa vào đường ác nữa, thường được sinh ở cõi Trời, cõi người hưởng sự cực
vui.
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời tính danh hiệu là Đa Bảo Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, nhất
định chẳng còn đọa vào đường ác, thường ở cõi Trời hưởng thụ những sự vui vẻ vô
cùng.
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời tính danh hiệu là Bảo Tướng Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây,
sinh lòng cung kính, thì chẳng bao lâu người ấy được chứng quả A La Hán.
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Ca Sa Chàng Như
Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây,
thì người này sẽ thoát tội sinh tử một trăm đại kiếp.
Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Đại Thông Sơn
Vương Như Lai. Nếu có người nam, hay người nữ nào, nghe thấy danh hiệu của Đức Phật
đây, người này được gặp hà sa chư Phật nói pháp rộng cho nghe, rồi tất được
thành Đạo Bồ Đề.
Lại đời xưa có Đức Tịnh Nguyệt Phật, Đức Sơn Vương Phật, Đức
Trí Thắng Phật, Đức Tịnh Danh Vương Phật, Đức Trí Thành Tựu Phật, Đức Vô Thượng
Phật, Đức Diệu Thanh Phật, Đức Mãn Nuyệt Phật.
Còn có chư Phật Thế Tôn như thế không thể kể xiết, tất cả
chúng sinh đời này, đời sau, hoặc ở cõi Trời, hoặc ở cõi người, hoặc nam, hoặc
nữ chỉ niệm danh hiệu của một Đức Phật, đã được vô lượng vô biên công đức, huống
chi là niệm nhiều danh hiệu Phật, thì chúng sinh đó, lúc sinh lúc tử được lợi
ích lớn, không còn bị đọa vào đường ác nữa.
Nếu có người nào khi sắp mệnh chung tất cả họ hàng, hay chỉ
một người, vì người ốm đó, cất cao tiếng niệm, một danh hiệu Phật, khi người ốm
chết, trừ tội Vô Gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả, tội Vô Gián kia
tuy rất nặng nề, trải qua ức kiếp không thể siêu thoát, nhưng lúc lâm chung,
người ta vì mình niệm danh hiệu Phật, thì những tội nặng cũng dần tiêu diệt, huống
chi chúng sinh tự mình xưng niệm danh hiệu chư Phật, thì được vô lượng vô biên
phúc báo, diệt vô lượng tội”. (1 vái)
OOO
(KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN,
HẾT QUYỂN TRUNG)
Kinh Địa Tạng bản hạnh
Sức thệ nguyện rộng sâu
Chúng sinh độ hết thảy
Gậy Tích, ngọc Minh Châu
Rộng toang cửa địa ngục
Soi sáng cõi u sầu
Dốc lòng thành tinh tiến
Khỏi đọa chốn khổ đau.
Nam mô Thường trụ Thập phương Pháp. (3 lần) 1 vái OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI: SO SÁNH NHÂN DUYÊN CÔNG ĐỨC BỐ THÍ
Khi bấy giờ Ngài Địa Tạng Bồ Tát nương uy Đức Phật, từ nơi
tòa ngồi, đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn! Con xem chúng sinh trong vòng nghiệp Đạo công đức bố thí nhiều ít khác
nhau, có người được hưởng phúc trong một đời, có người mười đời, có người trăm
đời, có người nghìn đời, lại có người hưởng phúc lợi rất lớn. Những sự việc ấy
là bởi tại sao? Xin Đức Thế Tôn chỉ cho con biết.”
Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng: “Nay Ta nhân ở cung Trời
Đao Lợi trong chúng hội này, mà thuyết giảng về sự việc so sánh công đức nhiều
ít của việc bố thí cõi Diêm Phù Đề. Ông nên lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói rõ
cho.”
Địa Tạng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: “Con có nghi ngờ về sự
việc ấy, con muốn được nghe.”
Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát: “Trong cõi Diêm Phù có
các quốc vương, các hàng tề phụ, các quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, dòng đại
Sát Lợi, đại Bà La Môn, nếu gặp những kẻ bần cùng hèn mạt, cho đến những hạng
tàn tật, câm ngọng, ngây điếc, đui mù, gặp những hạng người thân thể không được
vẹn toàn như thế; những lúc các Vua trong nước lớn ấy, muốn làm bố thí mà đầy đủ
lòng từ bi hỷ xả, tự tay bố thí cho những kẻ đó; hoặc sai người khác đem của bố
thí, lại dùng lời nói nhẹ nhàng an ủi. Những bậc quốc vương các nước lớn ấy được
hưởng phúc lợi, công đức bố thí ngang với công đức cúng dàng trăm nghìn hà sa
chư Phật. Bởi vì sao thế? Bởi các vua ấy thường vì những kẻ nghèo hèn tàn tật,
mà đã phát tâm đại từ đại bi cho nên phúc báo được hưởng thế này: Trong trăm
nghìn kiếp thường được đầy đủ bảy thứ quý báu huống chi những thứ ăn mặc thường
dùng.
Lại thế này nữa Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, như có các
vị quốc vương cho đến hàng Bà La Môn gặp hình tượng Phật, chùa, tháp thờ Phật,
cho đến hình tượng Bồ Tát, Thanh Văn hay Bích Chi Phật, tự mình sửa sang cúng
dàng bố thí. Các vị vua ấy sẽ được ba đời làm Trời Đế Thích hưởng niềm vui sướng.
Nếu có thể đem phúc lành bố thí hồi hướng chúng sinh trong khắp Pháp giới, thì
quốc vương đó trong mười số kiếp thường làm vua Trời Đại Phạm Thiên Vương.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Nếu đời sau này có các quốc
vương cho đến các hàng dòng Bà La Môn, gặp các chùa, tháp của Phật thuở trước,
hoặc là Kinh điển cho đến hình tượng bị hoại, rách nát mà hay phát tâm xin tu bổ
lại, các vị vua ấy tự mình sửa sang hoặc khuyên người khác, kể trăm nghìn người
kết duyên bố thí. Các vị vua ấy trong trăm nghìn đời làm vua Chuyển Luân, còn
các người khác bố thí như thế thì trăm nghìn đời thường được làm vua ở các nước
nhỏ. Nếu lại đến trước các chùa, tháp Phật mà tự phát tâm hồi hướng công đức,
thì các vị ấy đều thành Phật Đạo được hưởng quả phúc Vô lượng vô biên.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này có các quốc
vương cho đến các hàng dòng Bà La Môn, thấy người già yếu, phụ nữ sinh nở, trong
khoảng giây phút đủ lòng từ bi, bố thí thuốc thang, cơm nước, giường, chiếu, quần
áo, chỗ nằm khiến cho họ được vui vẻ yên ổn, như thế thì được phúc đức vô cùng,
trong một trăm kiếp thường được làm vua cõi Trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp
thường được làm vua cõi Trời Lục Dục và rồi thành Phật không bao giờ còn đọa
vào đường ác, đến trăm nghìn kiếp lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này có các quốc
vương cho đến các hàng dòng Bà La Môn, hay làm những việc bố thí như thế được
phúc vô cùng, lại hay hồi hướng chẳng kể ít nhiều tất được thành Phật. Huống
chi được những quả báo làm vua Đế Thích, Phạm Thiên hay vua Chuyển Luân. Vì thế
Địa Tạng, cần khuyên tất cả chúng sinh đều nên tu hành như thế.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, ở trong Phật pháp mà gieo trồng được một chút nhân lành,
chỉ bằng sợi tóc, hạt cát, mảy bụi, thì được phúc lợi không thể ví dụ.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, gặp hình tượng Phật hình tượng Bồ Tát hay Bích Chi Phật
hoặc vua Chuyển Luân mà lại bố thí phát tâm cúng dàng thì được vô lượng vô biên
phúc lành thường được sinh ở cõi người cõi Trời, hưởng niềm cực vui. Nếu đem hồi
hướng cho cả Pháp giới, thì người ấy được phúc lợi vô cùng.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, mà khi gặp được Kinh điển Đại Thừa, được nghe câu Kinh
hay một bài Kệ, mà rồi đem lòng ân cần trân trọng tán thán cung kính, bố thí, cúng
dàng thì người ấy được phúc báo vô cùng. Nếu đem hồi hướng cho cả Pháp giới,
thì được phúc lợi không thể nào bàn.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, gặp chùa, tháp Phật, Kinh điển Đại Thừa, những gì mời
làm, mà biết bố thí, cúng dàng tán thán, chắp tay chiêm lễ. Nếu gặp chùa tháp,
Kinh điển đã cũ hoặc bị hủy hoại, mà tu bổ lại. Một mình phát tâm, hoặc khuyên
nhiều người cùng phát tâm làm, những người phát tâm làm theo như vậy, trong ba
mươi kiếp thường được làm vua ở các nước nhỏ, còn người Đàn Việt chính thức thường
được làm vua Chuyển Luân, lại đem thiện Pháp mà giáo hóa cho các vua nước nhỏ.
Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp, làm những điều thiện như là bố thí, hoặc
giả cúng dàng sửa sang chùa, tháp tu bổ Kinh điển, cho đến làm được những việc
nhỏ như sợi tóc, mảy bụi, giọt nước, hạt cát những việc thiện đó mà đem hồi hướng
cho khắp Pháp giới thì những công đức của người làm đó hàng trăm nghìn đời được
hưởng những sự vui vẻ vô cùng. Nếu chỉ hồi hướng cho người nhà mình, hoặc tự
mình hưởng những lợi ích đó, thì sẽ ba đời được hưởng quả vui, nếu làm một phần
thì hưởng vạn phần.
Này ông Địa Tạng! Tạo tác nhân duyên công đức bố thí là như
thế đấy.
(1 vái) OOO
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT: NÓI VỀ ĐỊA THẦN
HỘ PHÁP
Khi bấy giờ ông Kiên Lao Địa Thần bạch Đức Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Từ xưa tới nay, con đã chiêm ngưỡng đỉnh lễ vô lượng bậc Đại Bồ
Tát đều là những vị trí tuệ thần thông, lớn không nghĩ bàn độ khắp chúng sinh,
như Ngài Địa Tạng Đại Bồ Tát đây, so với các vị hàng Bồ Tát khác, thì bản thệ
nguyện rất là sâu rộng.
Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ Tát có nhân duyên lớn với cõi Diêm
Phù, như Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm hay Ngài Di Lặc cùng hóa hiện ra trăm
nghìn thân hình để độ chúng sinh khắp trong sáu ngả; nhưng chỗ phát nguyện của
các vị ấy khả dĩ làm xong. Thế mà thệ nguyện của Ngài Địa Tạng giáo hóa chúng
sinh khắp trong sáu đường, trải đến số kiếp kể nhiều như cát vạn ức sông Hằng.
Bạch Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh đời này, đời sau, nên lựa
chọn lấy chỗ đất sạch sẽ ở về phía nam khu đất mình ở, rồi dùng các thứ đất,
đá, tre, gỗ làm thất thờ cúng, ở trong tô vẽ hình hoặc tạc tượng Địa Tạng Bồ
Tát bằng vàng, bạc, đồng hay là bằng sắt, mà thắp hương lễ, tán thán, cúng dàng,
thì người ấy được mười điều lợi ích ngay nơi mình ở.
Những gì là mười?
Một là đất cát mậu mỡ tốt lành.
Hai là nhà cửa bình yên mãi mãi.
Ba là kẻ mất được sinh cõi Trời.
Bốn là người còn hưởng thêm tuổi thọ.
Năm là cầu gì cũng được như ý.
Sáu là không mắc tai nạn nước lửa.
Bảy là trừ sạch các việc hao tổn.
Tám là dứt hẳn những cơn ác mộng.
Chín là ra vào có Thần hộ vệ.
Mười là thường được gặp bậc Thánh nhân.
Bạch Đức Thế Tôn! Chúng sinh đời này và cả đời sau, nếu cứ
theo đúng cách thức như thế mà cúng dàng Ngài Địa Tạng Bồ Tát ở nơi phần đất mà
mình cư trú, thì được mọi sự lợi ích như vậy.”
Vị Địa Thần lại bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Về đời
sau này nếu có thiện nam hay thiện nữ nào ở ngay chỗ mình, có Kinh điển này và
tượng Bồ Tát mà người ấy lại chuyên tụng cúng dàng Địa Tạng Bồ Tát, thì con
ngày đêm thường lấy sức thần hộ vệ người ấy, khỏi mắc tai họa nước, lửa, giặc,
cướp, nạn lớn, nạn nhỏ, tất cả sự ác, đều tiêu diệt hết.”
Đức Phật bảo ông Kiên Lao Địa Thần: “Sức thần của ông các thần
khó sánh. Vì cớ gì thế? Vì đất đai cõi Nam Diêm Phù Đề đều là nhờ ông giữ gìn kể
từ cỏ cây, cát đá, núi rừng, tre lau, thóc gạo, châu báu tất cả những thứ từ đất
sinh ra cũng đều nhờ sức của ông giúp đỡ, nay ông lại còn tuyên dương những việc
lợi ích của Ngài Địa Tạng Bồ Tát, thì phần công đức và sức thần thông của ông gấp
bội trăm nghìn lần trước.
Này ông Địa Thần! Nếu về đời sau có người thiện nam hay thiện
nữ nào cúng dàng Bồ Tát, chuyên tụng Kinh này, rồi cứ y theo làm lấy một việc
mà Kinh Địa Tạng Bản Nguyện đã dạy, thì ông nên dùng sức thần thông mà ủng hộ
người đó, đừng để hết thảy những sự tai hại và chẳng vừa ý đưa đến tai họ, huống
nữa để cho họ chịu sự ấy. Chẳng những mình ủng hộ người đó, mà còn có cả, Phạm Vương,
Đế Thích cùng dòng quyến thuộc và các chư Thiên, dòng họ chư Thiên ủng hộ người
ấy. Tại sao lại được các vị Hiền Thánh ủng hộ như thế? Đều do vì những người ấy
chiêm lễ Địa Tạng hình tượng và chuyên đọc tụng Kinh Bản Nguyện này, tự nhiên
xa lìa được nơi biển khổ chứng vui Niết Bàn, bởi vậy nên được ủng hộ một cách lớn
lao như thế.”
(1 vái) ooo
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI HAI: LỢI ÍCH CỦA
SỰ THẤY NGHE
1 - Bấy giờ đỉnh đầu của Đức Thế Tôn phóng ra trăm nghìn
muôn ức tia sáng cực lớn như là:
Tia sáng sắc trắng,
Tia sáng sắc trắng lớn,
Tia sáng tốt lành,
Tia sáng tốt lành lớn,
Tia sáng như ngọc,
Tia sáng như ngọc lớn,
Tia sáng sắc tía,
Tia sáng sắc tía lớn,
Tia sáng sắc xanh,
Tia sáng sắc xanh lớn,
Tia sáng sắc biếc,
Tia sáng sắc biếc lớn,
Tia sáng sắc hồng,
Tia sáng sắc hồng lớn,
Tia sáng sắc lục,
Tia sáng sắc lục lớn,
Tia sáng sắc vàng ròng,
Tia sáng sắc vàng ròng lớn,
Tia sáng tướng mây lành,
Tia sáng tướng mây lành lớn,
Tia sáng nghìn vòng tròn,
Tia sáng nghìn vòng tròn lớn,
Tia sáng vòng tròn báu,
Tia sáng vòng tròn báu lớn,
Tia sáng vừng mặt trời,
Tia sáng vừng mặt trời lớn,
Tia sáng vừng mặt trăng,
Tia sáng vừng mặt trăng lớn,
Tia sáng hình cung điện,
Tia sáng hình cung điện lớn,
Tia sáng hình mây biển,
Tia sáng hình mây biển lớn.
Từ trên đỉnh đầu phóng ra những luồng tia sáng như thế rồi lại
phát ra những tiếng mầu nhiệm mà bảo đại chúng Thiên - Long Bát Bộ, nhân và phi
nhân: “Hôm nay ở đây, cung Trời Đao Lợi, đại chúng hãy nghe Ta đương khen ngợi
những sự lợi ích, những sự khó bàn, những sự nhân hạnh siêu phàm nhập Thánh, những
sự đã tu chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không còn thoái chuyển nơi Đạo Vô
Thượng Chính Đẳng Chính Giác của Ngài Địa Tạng; đã thi hành ở cõi Trời, cõi người.”
2 - Đức Phật lúc đó nói vừa đến đấy, trong Pháp hội có vị Đại
Bồ Tát hiệu Quán Thế Âm, từ tòa đứng dậy chắp tay quỳ gối mà bạch Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Ngài Địa Tạng đây, từ bi đức lớn thương xót chúng sinh mắc nhiều tội
khổ, mà Ngài hóa ra nghìn vạn ức thân, trong muôn ức cõi, công đức bố thí và sức
uy thần không thể nghĩ bàn của Ngài Bồ Tát, con đã được nghe Đức Thế Tôn nói và
trong mười phương vô lượng chư Phật cùng lời khen ngợi Địa Tạng Bồ Tát. Vì sao
chư Phật đời xưa đời này và cả đời sau, kể những công đức mãi vẫn chưa hết, vừa
rồi con được nghe Đức Thế Tôn bảo đại chúng rằng: “Ta muốn tuyên nói các sự lợi
ích của Ngài Địa Tạng. Xin Đức Thế Tôn vì khắp chúng sinh đời nay, đời sau, mà
nói những sự không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng, khiến cho tám bộ Trời, Rồng
chiêm lễ để được phúc lành.”
3 - Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm rằng: “Ông có nhân duyên với
cõi Sa Bà thật là rất lớn. Nếu có Trời, Rồng hoặc nam, hoặc nữ, hoặc Thần, hoặc
Quỷ, cho đến chúng sinh khổ trong sáu đường được nghe danh hiệu, thấy hình tượng
ông, hay mến mộ ông, cùng khen ngợi ông, thì chúng sinh ấy thế nào cũng tu được
Đạo Vô Thượng và không thoái chuyển, thường được sinh vào cõi Trời, cõi người,
hưởng đủ sự vui, đến khi nhân quả sắp được thuần thành Phật thụ ký cho. Nay ông
sẵn lòng từ bi thương xót các loài chúng sinh, Trời, Rồng, tám bộ, mà muốn nghe
Ta nói sự lợi ích không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng! Ông nghe cho kỹ, Ta nói
cho hay.”
Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vâng!
Con muốn nghe.”
4 - Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm rằng: “Trong các thế giới,
đời nay, đời sau, có người Trời nào đã hưởng hết phúc, thấy năm tướng suy hiện
ra điềm xấu hoặc là có kẻ phải đọa đường ác. Các người Trời đó, hoặc nam, hoặc
nữ, đương khi thấy những điềm gở hiện ra, mà được trông thấy hình tượng của
Ngài Địa Tạng Bồ Tát, hoặc là nghe thấy danh hiệu Bồ Tát, rồi một lần lễ, một lần
chiêm ngưỡng, thì những vị ấy lại được tăng phúc ở cõi Trời, người, hưởng vui
vô cùng, chẳng bao giờ đọa ba đường ác nữa, huống chi những người được nghe
danh hiệu, được thấy hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, rồi đem hương, hoa, y phục các
thứ ăn, uống, châu báu bố thí cúng dàng thì được phúc lợi công đức vô biên.”
5 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm! Trong các thế giới, đời
nay, đời sau, chúng sinh sáu đường, đến khi sắp mất được nghe danh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát, dù chỉ một tiếng thoáng qua lỗ tai, thì chúng sinh ấy, mãi không còn phải
trải qua sự khổ trong ba đường ác, huống chi là lúc kẻ sắp mất kia, lại được
cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem các tài vật, nhà cửa, châu báu, y phục của người
sắp bị mất đó, mang mà bán đi để tô, đắp, vẽ hình tượng Địa Tạng. Rồi bảo cho
người bệnh nhân chưa chết mắt thấy, tai nghe biết rằng họ hàng đã đem nhà cửa,
tài vật châu báu, vì cầu cho mình mà tô, đắp vẽ hình tượng Địa Tạng. Nếu như
người ấy, phải bị nghiệp báo chịu bệnh trầm trọng, nhờ công đức này liền được
khỏi ngay và tăng tuổi thọ, hoặc giả người ấy nghiệp báo phải chết, lại cả tội
chướng nghiệp chướng hợp lại, đáng lẽ phải đọa vào chốn đường ác, xong vì nhờ
có công đức kể trên, sau khi chết rồi liền được sinh lên cõi Trời, cõi người,
hưởng niềm vui lớn tất cả tội chướng thảy đều tiêu tan.”
6 - Lại thế này nữa Bồ Tát Quán Âm:
Nếu đời sau này có người thiện nam hay thiện nữ nào đương
còn bú mớm ba tuổi, năm tuổi, cho đến mười tuổi, sớm mất cha mẹ và anh, chị,
em, đến khi lớn lên thương nhớ cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, không biết đọa vào
nẻo ác thú nào? Sinh thế giới nào? Sinh cõi Trời nào? Nếu như người ấy tô vẽ
hình tượng Địa Tạng Bồ Tát cho đến nghe danh, một lần chiêm ngưỡng, một lần đỉnh
lễ, một đến bảy ngày, tâm không thoái chuyển, nghe danh thấy hình chiêm lễ cúng
dàng. Thời hàng quyến thuộc đã sớm mất đi của con người đó, nếu vì theo nghiệp
đang chịu số kiếp bị đọa đường ác, nay nhờ công đức của các con cái, hay anh,
chị, em tô vẽ hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, chiêm lễ cúng dàng, liền được giải
thoát và được sinh lên cõi Trời, cõi người, hưởng niềm vui thú. Còn như quyến
thuộc của con người ấy, khi chết nhờ phúc đã được sinh lên cõi Trời, cõi người
hưởng niềm vui rồi, nhờ công đức này càng thêm nhân lành tu hành bậc Thánh vui
vẻ vô cùng. Nếu như người ấy, dốc lòng chiêm lễ hình tượng Địa Tạng hai mươi mốt
ngày, niệm danh hiệu Ngài đủ một vạn biến, sẽ được Bồ Tát hiện vô biên thân bảo
cho người đó, rõ nơi quyến thuộc sinh ở cõi nào, hoặc trong giấc mộng, được
Ngài Địa Tạng hiện sức thần thông dẫn người đó đi khắp các thế giới, gặp hàng
quyến thuộc. Nếu người đó lại trong vòng mỗi ngày niệm danh Bồ Tát đủ một nghìn
lần, suốt một nghìn ngày, người ấy sẽ được Địa Tạng Bồ Tát sai các Quỷ, Thần,
Thổ Địa sở tại suốt đời hộ vệ hiện đời cũng được ăn mặc dư dật, hết những bệnh
khổ cho đến những sự tai vạ bất kỳ, không lọt qua cửa, huống là chính mình phải
chịu họa ư! Sau cùng lại được Địa Tạng Bồ Tát làm phép xoa đầu mà thụ ký cho.”
7 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!
Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào muốn
phát từ tâm rộng lớn cứu độ hết thảy chúng sinh, muốn tu hành Đạo Vô Thượng Bồ
đề lại muốn thoát khỏi trong vòng tam giới; những người ấy thấy hình tượng Địa
Tạng và nghe danh Ngài, dốc lòng quy y hoặc đem hương hoa, y phục, châu báu, đồ
ăn, thức uống, mà dâng cúng dàng, chiêm ngưỡng, đỉnh lễ thì sự cầu nguyện của
người thiện nam và thiện nữ đó, mau được thành tựu không bao giờ còn bị mắc chướng
ngại.
Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm! Nếu đời sau này, có người
thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu muôn ức những điều nguyện gì, hay nghìn vạn
ức những sự việc gì, ở đời hiện tại hay đời sau này, thì nên quy y, chiêm lễ,
cúng dàng, tán thán hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, thế thì những điều sở nguyện sở
cầu đều được thành tựu, nếu lại nguyện xin Địa Tạng Bồ Tát đại từ đại bi ủng hộ
mãi cho, thời trong giấc mộng người đó liền được Địa Tạng Bồ Tát xoa đầu thụ
ký.”
8 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!
Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào, trân
trọng đối với Kinh điển Đại Thừa, phát tâm sâu xa không thể nghĩ bàn, cầu mong
đọc tụng, dù gặp thầy giỏi truyền dạy cho thuộc nhưng rồi vẫn quên, cả tháng cả
năm không thể làm sao mà đọc tụng được những người thiện nam và thiện nữ ấy vì
nghiệp chướng cũ chưa được tiêu trừ, cho nên đối với Kinh điển Đại Thừa, kẻ ấy
không có tính năng đọc tụng. Những người như thế nếu được nghe danh hoặc thấy
hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, mà dốc hết lòng cung kính giãi bày, lại đem hương
hoa, các thức ăn, mặc và các đồ thờ cúng dàng Bồ Tát; lấy chén nước trong đặt
trước tượng Ngài suốt một ngày đêm, sau đó chắp tay thỉnh xin chén nước, ngoảnh
về phương nam mà uống cho cạn. Khi uống vào miệng tâm phải trịnh trọng, uống nước
xong rồi, kiêng năm thứ cay, rượu, thịt, tà dâm, cho đến vọng ngữ; mọi sự giết
hại trong vòng bảy ngày, hoặc hai mốt ngày: thì người thiện nam hay thiện nữ ấy,
khi ngủ sẽ mộng thấy Ngài Địa Tạng hiện vô biên thân, đến nơi dội nước lên đỉnh
đầu cho! Sau khi tỉnh dậy người ấy liền được thông minh sáng suốt, một khi nghe
qua Kinh điển Đại Thừa, thì liền nhớ mãi không bao giờ quên một câu Kinh, kệ.”
9 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!
Về đời sau này, nếu có người nào ăn mặc thiếu thốn, cầu
không toại nguyện, thân nhiều bệnh tật hoặc nhiều hung suy, nhà cửa bất an quyến
thuộc chia lìa, hoặc nhiều tai ương đến quấy nhiễu mình, trong mộng thường thấy
gặp sự kinh sợ. Những người như thế nếu được nghe danh hoặc thấy hình tượng Địa
Tạng Bồ Tát, dốc lòng cung kính niệm danh hiệu Ngài đủ một vạn biến, thì những
sự việc không toại ý trên, dần dần tiêu sạch và được an lành, ăn mặc dư dật,
cho đến giấc mộng đều được an vui.”
10 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!
Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào trong
đường sinh hoạt, vì việc công, tư, vì việc sinh tử hoặc vì việc gấp phải vào rừng
núi, vượt biển qua sông, hoặc nước lụt lớn, hoặc qua đường hiểm, thì những người
ấy trước khi ra đi, nên niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến, được
như thế thì qua những nơi ấy đều có các vị Quỷ, Thần hộ vệ, đi, đứng, nằm, ngồi
đều được yên vui. Cho dù có gặp hùm, sói, sư tử tất cả độc hại đều không xâm phạm.
Đức Phật lại bảo Ngài Quán Thế Âm!
Địa Tạng Bồ Tát có nhân duyên lớn với cõi Diêm Phù. Nếu như
Ta nói những sự lợi ích của Ngài Địa Tạng cho chúng nghe thấy, thì trăm nghìn
kiếp cũng không nói xiết. Vậy Quán Thế Âm! Ông nên lấy sức thần thông quảng đại
lưu truyền Kinh này, khiến cho chúng sinh ở cõi Sa Bà trăm nghìn vạn kiếp mãi
được yên vui.”
Bấy giờ Đức Phật mới nói kệ rằng:
Ta xem Địa Tạng sức uy thần,
Hằng hà sa kiếp khôn kể xiết,
Trong cõi Trời, người nếu chúng sinh,
Thấy nghe chiêm lễ một thời niệm,
Tất được lợi ích nhiều vô biên,
Ví dù nam nữ hoặc Long, Thần,
Khi hết phúc rồi đọa đường ác,
Nếu biết dốc lòng quy Đại Sĩ,
Tội chướng tiêu trừ phúc thọ tăng.
Những kẻ mồ côi cả cha mẹ,
Không được ấp ủ trong tình thương,
Vong hồn phụ mẫu bị sa đọa,
Lạc ở nơi đâu cũng không tường,
Lại những ai từ ngày sinh trưởng,
Họ hàng không được gặp bao giờ,
Và anh chị em dòng thân thuộc,
Đều chết từ lúc mình ấu thơ.
Kẻ ấy nay tô tượng Đại Sĩ,
Cảm luyến chiêm lễ không muốn rời,
Hai mươi mốt ngày niệm danh hiệu,
Bồ Tát liền hiện vô biên thân,
Chỉ rõ nơi sinh hàng quyến thuộc,
Dù đọa ác thú cũng ra mau,
Nếu tâm chẳng thoái lòng kính ngưỡng,
Liền được Bồ Tát đến xoa đầu.
Những ai muốn tu Bồ đề Đạo,
Cho đến mong lìa khổ ba đường,
Người ấy phát tâm từ bi lớn,
Trước nên chiêm bái Địa Tạng hình,
Hết thảy đều nguyện được mau thành,
Nghiệp chướng vĩnh viễn không ngăn ngại.
Có ai phát tâm niệm tụng Kinh,
Muốn độ quần mê sang bến Giác,
Dẫu lập nguyện lớn không nghĩ bàn,
Thế mà vừa đọc đã quên mất.
Người ấy bởi nghiệp chướng làm mê,
Cho nên Kinh Đại Thừa khó nhớ,
Nay phải nên đem các hương hoa,
Cả thứ ăn mặc đồ ngọa cụ,
Cúng dàng Địa Tạng thật thành tâm,
Đặt chén nước trong trước Đại Sĩ,
Sau một ngày đêm khẩn nguyện cầu,
Rồi uống chén nước cầu xin đó,
Và phải phát tâm rất sâu dày,
Nghiêm minh giữ gìn tròn ngũ giới,
Kiêng kỵ không ăn năm thứ cay,
Trong hai mốt ngày không hại vật,
Dốc lòng tưởng niệm Đại Sĩ danh,
Chiêm bao thấy rõ Bồ Tát hiện,
Tỉnh dậy liền được lợi đủ căn.
Từ đấy Kinh Chú tai nghe lọt,
Nghìn vạn kiếp sinh nhớ chẳng sai,
Nhờ uy thần lớn của Đại Sĩ,
Giúp cho người ấy trí tuệ thông.
Chúng sinh nghèo khổ thêm bệnh tật,
Cửa nhà hoạn nạn quyến thuộc ly,
Ngủ mê trong mộng không yên giấc,
Cầu mong thảy đều trái ý mình,
Dốc lòng chiêm lễ cầu Địa Tạng,
Hết thảy việc ác tự tiêu tan,
Cho đến chiêm bao đều yên ổn,
Quỷ, Thần ủng hộ cơm áo dư.
Muốn qua sông biển vượt rừng núi,
Cầm thú độc hại, cướp đón đường,
Hung Thần, Ác Quỷ mưa gió dữ,
Hết thảy tai ương mọi khổ đau,
Nếu biết chiêm lễ và cúng dàng,
Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ tượng,
Những ác hại kia thảy tiêu trừ.
Quán Âm lắng nghe Ta nói rõ,
Địa Tạng công đức lớn vô biên,
Trăm nghìn vạn kiếp nói không hết,
Sức nguyện của Ngài mở rộng ra,
Ai được nghe danh hiệu Bồ Tát,
Cho đến thấy tượng chiêm lễ Ngài,
Hương hoa ăn uống dâng y phục,
Người ấy nghìn đời hưởng thú vui,
Nếu lại biết đem công đức ấy,
Hồi hướng Pháp giới khắp chúng sinh,
Tất sẽ thành Phật thoát sinh tử.
Cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm,
Kinh này cần biết tuyên bày rõ,
Khắp cõi Hằng sa được lưu truyền. (1 vái) ooo
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI BA: DẶN DÒ CỨU ĐỘ NHÂN THIÊN
1 - Bấy giờ Đức Phật giơ tay sắc vàng làm phép xoa đầu Ngài
Địa Tạng Bồ Tát mà bảo rằng:
“Này ông Địa Tạng! Bồ Tát Địa Tạng!
Thần lực của ông không thể nghĩ bàn. Từ bi của ông không thể
nghĩ bàn. Trí tuệ của ông không thể nghĩ bàn. Biện tài của ông không thể nghĩ
bàn. Dù cho chư Phật khắp cả mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng thể
nghĩ bàn của ông, trăm nghìn muôn kiếp cũng không hết được.
Này ông Địa Tạng! Ông nên nhớ kỹ ngày nay Ta ở cung Trời Đao
Lợi, cùng trăm vạn ức hết thảy chư Phật, các vị Bồ Tát, Trời, Rồng, tám bộ
không thể kể xiết trong đại hội này, lại đem chúng sinh trong cõi Trời, người
còn trong nhà lửa chưa thoát tam giới, phó chúc cho ông.
Ông chớ để cho những chúng sinh ấy bị đọa đường ác, dù một
ngày, đêm; huống chi lại để cho chúng bị đọa vào ngục Vô Gián và ngục A Tỳ hàng
muôn ức kiếp khó thoát khỏi ư?
Này ông Địa Tạng! Chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề tâm tính
không định, quen làm ác nhiều, chợt có đôi lúc thoáng phát thiện tâm, nhưng rồi
phút chốc lại thoái lui ngay, nếu gặp duyên ác liền tăng gấp bội. Bởi thế cho
nên Ta phân thân ra trăm nghìn muôn ức, thuận theo căn tính của chúng mà độ cho
được giải thoát.
Này ông Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng Trời, người, phó
chúc cho ông. Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào trong cõi Trời,
người mà gây lấy được một chút thiện căn ở trong Phật Pháp, dù bằng sợi tóc, bụi
cát, giọt nước, thì ông nên lấy đạo lực ủng hộ cho những người ấy tu tập dần dần
chứng Đạo Vô Thượng, chớ để cho họ phải bị thoái lui.
Lại nữa Địa Tạng! Về đời sau này, nếu có những người cõi
nhân, cõi Thiên theo nghiệp báo ứng mà bị sa đọa vào nơi ác đạo. Đến khi bị đọa
vừa tới cửa ngục, những chúng sinh ấy nếu niệm được một danh hiệu Đức Phật, hay
hiệu Bồ Tát, hoặc một bài kệ hay một câu văn Kinh điển Đại Thừa, thì ông nên
dùng thần lực của ông, tìm mọi phương tiện cứu vớt người đó và nên hiện thân ra
trước người đó, mở toang địa ngục khiến cho họ được sinh lên cõi Trời hưởng sự
an lạc.”
Bấy giờ Đức Phật nói bài kệ rằng:
Nay Ta ân cần dặn bảo ông,
Dùng sức thần thông phương tiện độ,
Đời nay đời sau chúng nhân, Thiên,
Khiến cho khỏi đọa vào đường ác.
2 - Lúc bấy giờ Ngài Địa Tạng Bồ Tát, quỳ gối chắp tay bạch
Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Xin đừng bận tâm! Về đời sau này nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, đối với Phật Pháp cung kính giây phút, con cũng xin dùng
trăm nghìn phương tiện độ cho người ấy mau được giải thoát khỏi vòng sinh tử.
Huống chi người ấy nghe thấy việc thiện, rồi nhớ tới tu hành, tất nhiên là được
chứng Đạo Vô Thượng, không bao giờ còn thoái chuyển được nữa.”
3 - Lúc Ngài Địa Tạng nói đến đây xong trong Pháp hội có một
vị Bồ Tát là Hư Không Tạng bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Từ khi con đến
cung Trời Đao Lợi, nghe Đức Như Lai khen sức uy thần không thể nghĩ bàn của
Ngài Địa Tạng về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, cho đến hết thảy
các hàng, Trời, Rồng nghe Kinh điển này và nghe danh tự, chiêm lễ hình tượng Địa
Tạng Bồ Tát, thì sẽ được hưởng những phúc lợi gì? Xin Đức Thế Tôn vì khắp chúng
sinh đời này, đời sau, nói lược việc ấy cho con được nghe.”
4 - Đức Phật bảo Ngài Hư Không Tạng rằng: “Ông hãy lắng
nghe! Lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà nói rõ cho. Về đời sau này, nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, được thấy hình tượng Địa Tạng Bồ Tát và nghe Kinh này cho
đến đọc tụng, rồi đem hương hoa, các thứ ăn, uống, y phục, châu báu, bố thí,
cúng dàng, chiêm lễ, tán thán, thì kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi ích như
sau:
Một là được hàng Thiên Long hộ niệm.
Hai là quả thiện ngày một thêm lên.
Ba là kết tập nhân lành Vô Thượng.
Bốn là tâm đạo chẳng thoái Bồ đề.
Năm là y phục ăn, uống đầy đủ.
Sáu là không còn mắc những bệnh tật.
Bảy là xa lìa tai nạn nước lửa.
Tám là không bị tệ nạn trộm cắp.
Chín là ai thấy cũng đều kính phục.
Mười là được các Quỷ Thần giúp đỡ.
Mười một là thân nữ chuyển thân nam.
Mười hai là làm con gái Vua, quan.
Mười ba là được thân tướng tốt đẹp.
Mười bốn là thường được sinh cõi Trời.
Mười lăm là hoặc làm bậc Vua Chúa.
Mười sáu là đủ thông rõ kiếp trước.
Mười bảy là cầu những gì cũng được.
Mười tám là quyến thuộc được yên vui.
Mười chín là họa bất ngờ dứt sạch.
Hai mươi là thoát hẳn những nghiệp chướng.
Hai mốt là đến đâu không trở ngại.
Hai hai là đêm mộng được an vui.
Hai ba là tiên vong được lìa khổ.
Hai bốn là nhờ phúc sinh cõi lành.
Hai lăm là được Thánh Hiền khen ngợi.
Hai sáu là thông minh được lợi căn.
Hai bảy là thêm giàu lòng từ mẫn.
Hai tám là rốt ráo được thành Phật.
5 - Lại nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Nếu như các hàng Trời,
Rồng, Quỷ, Thần đời này, đời sau được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát đỉnh lễ
hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, hoặc được nghe thấy những sự tu hành bản nguyện của
Ngài Địa Tạng Bồ Tát, mà lòng ngưỡng mộ tán thán chiêm lễ, thì được bảy điều lợi
ích như sau:
Một là mau chóng được bậc Thánh.
Hai là nghiệp ác tiêu trừ hết.
Ba là chư Phật đều ủng hộ.
Bốn là không thoái Đạo Bồ đề.
Năm là bản lực được tăng trưởng.
Sáu là biết rõ việc đời trước.
Bảy là rốt ráo được thành Phật.
6 - Bấy giờ Pháp hội tất cả các vị nhiều không kể xiết, hết
thảy chư Phật chư Đại Bồ Tát, Trời, Rồng, tám bộ ở khắp mười phương đến nghe Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên dương khen ngợi sức uy thần lớn không thể nghĩ bàn của
Ngài Địa Tạng và đều khen rằng việc chưa từng có.
Lúc đó ở trên cung Trời Đao Lợi tỏa xuống như mưa những hoa
thơm ngát, thiên y, châu báu cúng dàng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài Địa Tạng
Bồ Tát xong rồi, tất cả đại chúng ở trong Pháp hội cung kính chắp tay chiêm lễ
mà lui.
(KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN HẾT QUYỂN HẠ)
Kinh Địa Tạng bản thệ
Cân nhắc các nghiệp nhân
Nào ngọng, câm, tàn tật
Bởi kiếp trước gây nên
Nay dốc lòng đọc tụng
Các Kinh điển Đại Thừa
Được vô biên phúc lợi
Hoa Sen báu ắt sinh.
Nam mô Thường trụ Thập phương Tăng. (3 lần) 1 vái OOO
KỆ NIỆM BỒ TÁT DANH
Đức Địa Tạng tâm từ như đất,
Hết thảy ba đời chư Phật khen,
Rộng sâu đại nguyện sức uy thần,
Độ sinh chưa hết chưa thành Phật,
Gậy Tích rung lên tan địa ngục,
Ngọc Châu soi suốt thấu đại
thiên,
Bồ Tát giáo chủ cõi U Minh,
Đưa khắp hữu tình sang bến Giác.
Nam mô U Minh Giáo chủ Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma ha
tát. (3 lần) 1 vái OOO
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (1 tràng hay 3 tràng) 1 vái
ooo
(Nêu có nhu cầu thì đọc
sớ biểu hay văn cầu siêu, rồi tụng Bát Nhã cho đến Tam tự quy là xong khóa lễ.)
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát nhã Ba
la mật đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền độ thoát hết thảy khổ ách.
Này ông Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, Không chẳng khác Sắc,
sắc tức là không, không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức, cũng đều như thế.
Này ông Xá Lợi Tử! Tướng không của mọi pháp không sinh,
không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt cho nên trong chân
không, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý: không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới
cho đến không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có cái hết vô minh,
cho cả cái già, chết, cũng không có cái hết già, chết, không có Khổ, Tập, Diệt,
Đạo không có trí tuệ cũng không có chứng đắc, vì không chỗ chứng đắc.
Bồ Tát y theo Bát nhã Ba la mật đa nên tâm không ngăn ngại,
vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu
kính Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã Ba la mật đa mà chứng
được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Cho nên biết Bát nhã Ba la mật đa là
Đại Thần chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng chú, là Vô Đẳng Đẳng chú trừ được hết
thảy khổ, chân thực không hư.
Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã Ba la mật đa. Liền nói bài chú
rằng
“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đề, Bồ đề tát
bà ha, Ma Ha Bát nhã Ba la mật đa” (3 lần)
THẦN CHÚ VÃNG SINH TỊNH ĐỘ
Nẵng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa già tha, a di
rị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca
lan đa, già di nhị, già già na, chỉ đá ca lệ, sa bà ha. (3 lần)
KỆ NIỆM PHẬT A DI ĐÀ
Phật Di Đà mình vàng lấp lánh,
Tướng tốt thay trong sáng khôn bì,
Mi trắng toả Tu Di năm núi,
Mắt như bốn biển lớn trong xanh,
Hào quang hoá Phật hình vô ức,
Hóa Bồ tát cũng thật vô biên,
Bốn tám nguyện khắp miền độ chúng,
Chín phẩm hàm linh chứng Bồ đề.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
(3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật (108 biến).
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần).
HỒI HƯỚNG
Tụng kinh công đức lớn vô cùng,
Bao nhiêu phúc đức xin hồi hướng,
Nguyện khắp chúng sinh đang chìm
đắm,
Sớm về nước Phật Vô Lượng Quang.
Đao Lợi Phật thuyết Pháp huyền
diệu,
Công hạnh Địa Tạng rất rộng sâu,
Đời sau mãi lưu truyền Thánh
Giáo,
Lợi khắp Trời, người thoát khổ
đau.
Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát. (3 lần) 1 vái ooo
TAM TỰ QUY
1 - Con quy Phật rồi, Nguyện cho chúng sinh, Thấu hiểu Đạo lớn,
phát tâm vô thượng. (1 lễ)
2 - Con quy Pháp rồi, Nguyện cho chúng sinh, Thông thuộc
Kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
3 - Con quy Tăng rồi, Nguyện cho chúng sinh, Hòa hợp đại
chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
LẠY CHƯ THÁNH HIỀN
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về khắp cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật Đạo. (3 vái)
HẾT
VĂN CẦU SIÊU
C.S. ĐỌC:
Kính lạy Tam Bảo!
Đệ tử chúng đẳng, thành kính nguyện Phật, Pháp, Tăng trong
mười phương.
Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà
Phật, Đức Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát, Hộ Pháp Thiện Thần từ bi gia hộ.
Chúng đệ tử tụng đọc “Địa Tạng Bản Nguyện Công Đức Kinh” cập
lễ Phật niệm Phật chuyên vì gia đình (Tín chủ) là: … ở … xã, huyện, tỉnh, nước
Việt Nam.
Nay nhân tuần …, thành tâm biện sửa hương hoa lễ phẩm cúng
dàng Tam Bảo. Nguyện cầu siêu độ cho hương hồn (Bố hay Mẹ) của tín chủ là chân
linh: ….
Mệnh vong ngày …
Phần mộ nay táng tại nghĩa trang …
Và khắp nội ngoại hết thảy các vong linh.
Đ.C. HÒA:
Nguyện chư hương linh đẳng:
Nhất tâm hằng tỏ ngộ, Lục dục sớm tan không.
Cõi nhân gian sinh tử xa lìa, Nơi An Lạc hóa sinh tự tại.
Ao Thất Bảo thảnh thơi tắm mát, Đài cửu Liên nhẹ gót tiêu
dao.
Quán Thế Âm, Thế Chí kết đồng hàng, Bồ Tát Thánh Tăng là bầu
bạn.
Thần thức hằng vui nơi cõi Tịnh, Nghiệp duyên trần không vướng
mảy may.
Trên đài Sen chín phẩm nở hoa, Chư Phật phóng hào quang thụ
ký.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại từ Đại bi Tiếp Dẫn Đạo
Sư A Di Đà Phật.
TUYÊN BIỂU
Thượng lai tụng kinh dĩ tất, kim hữu biểu văn hợp thành
tuyên đọc. O
Tuân phụng Như Lai, thần tuân phụng Thích Ca Như Lai di
giáo. Đệ tử thần thành hoàng, thành khủng, khể thủ, khấu thủ, đại vì chúng nhân
bách bái, trần từ tuyên bạch thượng ngôn. OOO
KÍNH NGHE:
Tính không vắng lặng, nghiệp do thiện ác kết thành.
Đạo có luân hồi, tội bởi vô minh che lấp.
Nhờ Bồ Tát lưu trữ nhân lành, khiến chúng sinh thoát qua cửa
ác.
Nay (Hiếu chủ hay Tín chủ) chúng con là: … cùng họ hàng nội
ngoại quyến thuộc, ở … xã, huyện, tỉnh, nước Việt Nam.
Nhân: (Tuần hay ngày …) cầu siêu độ vong báo ân dưỡng dục.
Chúng con thành tâm cúng dàng Tam Bảo, Hộ Pháp Tôn Thần từ
bi cứu khổ độ trì cho hương hồn: …
Mất ngày …
Phần mộ táng tại ….
Cùng khắp nội ngoại gia tiên tiền tổ hết thảy đẳng chư hương
hồn.
Chúng con tự nghĩ: Chân linh chư vị
Bản tính chưa thông, chân tâm chẳng ngộ. Phóng túng thân, khẩu,
ý ba nghiệp mê lầm. Buông lung tham, sân, si sáu căn rông rỡ. Sinh trong trần
thế thường gây nên lắm mối oan gia. Thác xuống u đồ dễ đọa vào các nơi ác đạo.
Ba đường khổ mặc máy luân hồi, Mười cửa ngục theo căn định
nghiệp. Vòng quanh kiếp kiếp duyên nợ báo đền, Nối tiếp đời đời oán thân gặp gỡ.
Khiến cho nhau xa lánh cửa từ, Đua cả nhóm vào trong nhà tối.
Người có đạo quay đầu tới bến được an vui, Kẻ không tu nhắm
mắt xuôi tay còn oán hận.
Một dạ xót xa, tấc lòng thành khẩn, Chẳng nhờ bản hạnh, khó
báo từ ân.
Bởi thế hôm nay nhờ có thiện duyên, tín chủ chúng con nhất
tâm kính thỉnh: (Chư Tăng hay thiện nam tín nữ trong bản hội) tới (Chùa hay
nhà) thiết lập đàn tràng thỉnh Phật, tuyên Kinh nương nhờ giáo Pháp. Cúi đầu
phát nguyện kính lễ Đức Như Lai, xin báo bốn ân, cầu lên bờ Giác. Nay thời Khai
Kinh: “Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Công Đức” đã xong.
Kính dâng Văn Biểu chí thiết, chí thành cúi mong chứng giám:
Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kim liên
tọa hạ. O
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Kim
liên tọa hạ. O
Nam mô U Minh Giáo Chủ Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Hồng
liên tọa hạ. O
Thập Bát Long Thần Già Lam Chân Tể. Vị tiền. OOO
NGƯỠNG TRÔNG:
Lòng từ rộng lớn, thệ nguyện vô biên.
Bỏ thân huyễn hoặc để chóng ngộ vọng duyên.
Theo Đức Giác Hoa mà sớm mong thụ ký.
Chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề.
Địa ngục chưa không chẳng thành quả Phật.
Ngài Bồ Tát nâng Minh Châu soi khắp đại Thiên.
Đấng Đại Sư giơ Tích Trượng mở tung địa ngục.
LẠI NGUYỆN:
Chư linh chân tâm sáng tỏ, phúc tuệ tròn đầy.
Sinh tử vốn không chóng thoát đường mê đen tối.
Sắc không chẳng khác sớm lên bờ Giác thênh thang.
Giãi tấm lòng thành lạy Đức từ bi tế độ.
Kính dâng Văn Biểu Bồ Tát chứng minh.
Biểu văn tuyên tại: …
Ngày: …
Chúng con thành tâm dâng biểu. (1 vái) OOO
Thượng lai Biểu Văn tuyên đọc dĩ chu, kim đối Tam Bảo tiền,
thành tâm cẩn bạch.
Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần) OOO












0 Nhận xét