Advertisement

Kinh Địa Tạng - hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, phân viện nghiên cứu Phật học miền Bắc biên soạn

 

Kinh Địa Tạng - hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, phân viện nghiên cứu Phật học miền Bắc biên soạn













Kinh Địa Tạng hiện nay có ba bản Việt dịch thông dụng được các Phật tử lựa chọn để hành trì

1. Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện của hòa thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch - thường được các hội nhóm theo Tịnh tông học Hội lựa chọn 

2. Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện của hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, do hội Hộ niệm Việt Nam biên soạn 

3. Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện của hòa thượng Thích Tuệ Hải Việt dịch, phân viện nghiên cứu phật học miền Bắc biên soạn và in vào trong cuốn Chư Kinh Nhật Tụng 

Bản số 1 và số 2, nhờ có các hội nhóm tịnh độ bỏ công bỏ của để xiển dương và trở nên khá phổ biến. Tuy nhiên trong quá trình hành trì thì có một số vấn đề, các bản kinh này dùng quá nhiều các từ địa phương, phần nghi thức cũng chưa được đầy đủ, thậm chí chưa ăn nhập (Tụng kinh Địa Tạng nhưng lấy nguyên phần nghi thức của Kinh A Di Đà, ...), ... 

Vì vậy chúng tôi xin chia sẻ lại bản của phân viện nghiên cứu phật học miền Bắc. Nếu ai có nhu cầu sử dụng, biên soạn thành sách thì có thể copy để đỡ phải đánh máy lại. 

Xin nương nhờ vào thần lực của chư Phật, tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền thánh tăng mà nhất là ngài Địa Tạng Bồ tát phù hộ cho Quốc giới được an ổn, khiến chúng sinh được nhiều lợi ích theo đúng như trong kinh Địa tạng đã nói 

Nam mô đại bi đại nguyện đại Thánh đại từ, Thiết Vi Sơn gian, Diêm ma la giới, U Minh giáo chủ, địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận phương chứng bồ đề, bản tôn Cứu khổ Địa Tạng Bồ tát ma ha tát

(Kinh Địa Tạng)

Tam tạng pháp sư Pháp Đăng Hán dịch

HT. Thích Tuệ Hải Việt dịch

ĐỈNH LỄ TAM BẢO

Tất thảy cung kính Dốc lòng kính lạy Phật - Pháp - Tăng thường ở khắp mười phương. (3 lễ) OOO

NGUYỆN HƯƠNG

Nguyện hương cùng mây bay khắp cõi,

Cúng dàng chư Phật, Pháp mười phương,

Hết thảy Bồ Tát, chúng Thanh Văn,

Cả chư Hiền Thánh trong Pháp giới,

Duyên khởi quang minh đài soi sáng,

Bao trùm rộng khắp cõi vô biên,

Chúng sinh đều phát tâm Bồ Đề.

Vọng nghiệp xa lìa lên bờ giác. (1 vái) OOO

Cúng dàng rồi - Tất thảy cung kính. Dốc lòng kính lạy Phật - Pháp - Tăng thường ở khắp mười phương. (1 lễ) OOO

TÁN PHẬT

Phật tâm đức lớn hơn trời bể,

Pháp nhiệm mầu thiên thể sáng soi,

Thuyền Bát Nhã mọi loài cứu vớt,

Gieo nhân lành ban phát thiện duyên,

Đạo giải thoát Diệt phiền não chướng,

Hàng phục ma oan chúng thì ân,

Hơn tám vạn Pháp môn khai mở,

Khiến chúng sinh giác ngộ an vui.

Án Phạ Nhật La Vật. (3 lần) 1 vái

TAM BÁI

Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô tận hư không biến Pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng Thường trụ Tam bảo. (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lễ)

Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lễ) OOO

SÁM HỐI

Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi Pháp giới chúng sinh, tất nguyện đoạn trừ tam chướng quy mệnh sám hối (1 lễ) ooo

Đệ tử chúng đẳng chí tâm sám hối:

Xưa kia con tạo bao nghiệp ác,

Đều do ba độc: tham, sân, si,

Từ thân, miệng, ý, phát sinh ra,

Hết thảy con nay cầu sám hối,

Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy,

Thảy đều tiêu diệt được yên vui,

Niệm niệm cùng khắp trong cõi pháp,

Rộng độ chúng sinh chẳng thoái lui.

(1 vái) ooo

Sám hối phát nguyện rồi, quy mệnh lễ Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng khắp bậc Tam Bảo. (3 lễ) OOO

BÀI TỰA CA NGỢI ĐỨC ĐỊA TẠNG

Chúng con dốc lòng quy mệnh lễ,

Lạy Đức Giáo chủ cõi U Minh,

Bản Tôn Địa Tạng Đại Bồ Tát,

Rộng đầy như đất bao trùm khắp,

Cõi nước phương Nam toả hương thơm,

Mây báu mưa hoa vô lượng số,

Hiển hiện điềm lành tô trang nghiêm,

Trời, người, bạch Phật duyên gì thế?

Phật rằng: Địa Tạng Bồ Tát hiện,

Chư Phật ba đời đều tán thưởng,

Mười phương Bồ Tát cùng tin tưởng,

Con nay có được thiện duyên,

Ca ngợi Địa Tạng chân công đức,

Lưu trữ nhân lành độ chúng sinh,

Rung Tích Trượng mở tung địa ngục,

Cầm Minh Châu soi khắp đại thiên,

Điện Diêm Vương đài gương nghiệp tỏ,

Cõi Diêm Phù vì độ chúng sinh,

Làm Giáo chủ chứng minh công đức.

Nam mô Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ tát Ma ha tát. (3 lần) 1 vái OOO

TÁN HƯƠNG

Lư hương vừa bén chiên đàn

Khắp trong cõi pháp Đạo tràng thơm thay

Hải hội chư Phật đều hay

Theo chỗ dâng kết đài mây trong lành

Ân cần dãi tỏ lòng thành

Toàn thân chư Phật hiện hành độ cho.

Nam mô Hương vân cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần) 1 vái OOO

THẦN CHÚ SẠCH KHẨU NGHIỆP

Án tu lị tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị tát bà ha. (3 lần) O

THẦN CHÚ SẠCH THÂN NGHIỆP

Án tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 lần) O

THẦN CHÚ SẠCH BA NGHIỆP

Án sa phạ, bà phạ truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần) O

THẦN CHÚ AN THỔ ĐỊA

Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ tát bà ha. (3 lần) O

THẦN CHÚ PHÁ CÚNG DÀNG

Án nga nga nẵng, tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần) OOO

KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu

Muôn đời khó gặp dễ hay đâu

Con nay nghe thấy được trì thụ

Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu sâu.

Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

(3 lần) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ NHẤT: THUYẾT PHÁP TRÊN CUNG TRỜI ĐAO LỢI

1 - Chính thực tôi nghe: Một thời Đức Phật ở Trời Đao Lợi đã vì Mẫu Thân mà Ngài thuyết Pháp.

Bấy giờ hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ Tát nhiều không kể xiết, ở khắp mười phương vô lượng thế giới đều đến đại hội, cùng khen ngợi rằng: O

Đức Phật Thích Ca thường ở trong đời ngũ trược ác thế, hiện đại trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, thần thông đại lực điều phục chúng sinh đảo điên ngang ngạnh, khiến chúng hiểu rõ “Pháp khổ Pháp vui”.

Chư Phật khen xong, liền sai thị giả xin hỏi Thế Tôn.

Lúc đó Như Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn áng mây phát quang rực rỡ. Đó là:

Mây phát quang đại viên mãn,

Mây phát quang đại Từ Bi,

Mây phát quang đại trí tuệ,

Mây phát quang đại phúc đức,

Mây phát quang đại Bát Nhã,

Mây phát quang đại Tam Muội,

Mây phát quang đại cát tường,

Mây phát quang đại công đức,

Mây phát quang đại quy y,

Mây phát quang đại tán thán, …

Đức Phật phóng ra những áng mây sáng nhiều hơn thế nữa không thể kể xiết, lại nói ra tiếng vi diệu như là:

Tiếng bố thí độ, tiếng trì giới độ,

Tiếng nhẫn nhục độ, tiếng tinh tấn độ,

Tiếng thiền định độ, tiếng Bát nhã độ,

Tiếng từ bi, tiếng hỷ xả, tiếng giải thoát,

Tiếng vô lậu, tiếng trí tuệ, tiếng đại trí tuệ,

Tiếng Sư Tử gầm, tiếng đại Sư Tử gầm,

Tiếng sấm mây, tiếng đại sấm mây. O

2 - Cũng tiếng vang ấy Đức Phật nói ra kể không thể xiết, có vô lượng ức Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở cõi Sa Bà và các cõi khác đều đến đại hội tại Trời Đao Lợi, các vị ấy là:

Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi,

Trời Tu Diệm Ma, Trời Đâu Xuất Đà,

Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại,

Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ,

Trời Đại Phạm, Trời Thiểu Quang,

Trời Vô Lượng Quang, Trời Quang Âm,

Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh,

Trời Biến Tịnh, Trời Phúc Sinh,

Trời Phúc Ái, Trời Quảng Quả,

Trời Nghiêm Sức, Trời Vô Lượng Nghiêm Sức,

Trời Nghiêm Sức Quả Thực, Trời Vô Tưởng,

Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện-Kiến,

Trời Thiện Hiện, Trời Sắc Cứu Kính,

Trời Ma Hê Thủ La, đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, cả Thiên, Long chúng, Các chúng Quỷ, Thần đều đến đại hội. O

Lại có các Thần ở cõi Sa Bà, nhiều phương nước khác như là: Thần bể, Thần đất, Thần núi, Thần các sông ngòi, Thần coi đầm hồ, Thần chỗ hư không, Thần trông lúa mạ, Thần ở trên trời, Thần chủ quản ngày, Thần chủ quản đêm, Thần xét ăn uống, Thần giữ cỏ cây, các vị Thần này đều đến đại hội.

Lại có những chúa Quỷ lớn ở cõi Sa Bà, nhiều phương nước khác, các chúa Quỷ như: Quỷ thu hút máu, Quỷ lấy tinh khí, Quỷ nuốt thai trứng, Quỷ hành bệnh tật, Quỷ thâu khí độc, Quỷ dụng từ tâm, Quỷ làm phúc lợi, Quỷ đại ái kính, các Chúa Quỷ này đều đến đại hội. O

3 - Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Ngài Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng: “Ông xem chư Phật và chư Bồ tát, Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở thế giới này cùng thế giới khác, ở đất nước này cùng đất nước khác, hiện đang dự hội ở Trời Đao Lợi, ông có thể biết là bao nhiêu không?”

Bồ Tát Văn Thù Bạch Đức Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Nếu dùng sức thần của con tính đếm, dù cho nghìn kiếp cũng không biết được”.

Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: “Ngay như Ta lấy mắt Phật nhìn nhận cũng không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều là do Ngài Địa Tạng Bồ tát từ bao đời kiếp, hoặc là đã độ, đang độ, sẽ độ, hoặc đã thành tựu, hoặc đang thành tựu, hoặc sẽ thành tựu”.

Bồ Tát Văn Thù lại bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Bao kiếp tới nay nhờ tu thiện căn mà con đã chứng được trí vô ngại, nghe lời Phật dạy liền tin theo ngay, còn như các hàng tiểu quả Thanh Văn, Thiên Long tám bộ và các chúng sinh đời sau dầu nghe những lời thành thực của Đức Như Lai tất sinh ngờ vực, dù có rập đầu vâng chịu đi nữa cũng chưa dẹp khỏi được sự báng nhạo. Cúi xin Thế Tôn chỉ rõ nhân địa tu hành của Đại Địa Tạng Bồ Tát, Ngài làm hạnh gì, đã lập nguyện gì, mà được thành tựu khôn xiết nghĩ bàn những sự như thế”? O

Đức Phật liền bảo Ngài Văn Thù rằng: “Ví như tam thiên đại thiên thế giới trong có bao nhiêu cỏ cây, lùm, rừng, lúa, vừng, tre, lau, đá, núi, bụi nhỏ, cứ cho mỗi vật là một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, mỗi hột cát là một cõi nước, rồi mỗi cõi nước, cứ một bụi nhỏ lại là một kiếp, tính hết bụi nhỏ trong một kiếp ấy đều là kiếp cả. Bồ Tát Địa Tạng từ khi chứng quả Thập Địa tới nay cũng đã nhiều gấp nghìn lần con số thí dụ kể trên; huống là từ thuở Bồ Tát Địa Tạng còn từ trong bậc Thanh Văn, Độc Giác.

Lại nữa Văn Thù! Uy thần thệ nguyện của Bồ Tát đó khó thể nghĩ bàn. Nếu đời sau này có người thiện nam hay thiện nữ nào nghe thấy danh tự Địa Tạng Bồ tát hoặc là khen ngợi chiêm ngưỡng lễ lạy, hoặc niệm danh hiệu hay là cúng dàng cho chí sơn, vẽ, khắc, đắp hình tượng thì những người ấy sẽ được trăm lần sinh lên ở trong ba ba cõi Trời, không bao giờ đọa vào đường ác nữa”. O

4 - Này Văn Thù ơi! Trải vô lượng kiếp xa xưa về trước, tiền thân của Ngài Địa Tạng Bồ Tát là con Trưởng Giả. Đời ấy có Phật hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, con ông Trưởng Giả, thấy Phật tướng mạo đầy đủ tốt đẹp nghìn phúc trang nghiêm, mới hỏi Đức Phật; tu hạnh nguyện gì mà được như thế?

Khi ấy Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh, bảo con Trưởng Giả muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sinh khốn khổ.

Này Văn Thù ơi! Con ông Trưởng Giả nghe xong nguyện rằng: Con xin từ nay trở về sau này đời đời kiếp kiếp, dùng mọi phương pháp khuyên bảo chúng sinh trong sáu đường khổ, khiến cho bọn họ được giải thoát hết. Rồi tự thân con mới chứng quả Phật. Vì đối trước Phật, con ông Trưởng Giả tự phát nguyện lớn cho nên đến giờ trải qua trăm nghìn muôn vạn ức kiếp không thể kể xiết mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát. O

5 - Lại về quá khứ cách đây vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp, có Đức Phật là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, Đức Phật ấy thọ đến bốn trăm ngàn muôn ức số kiếp, trong đời Tượng-Pháp có người con gái dòng Bà La Môn tích phúc sâu dầy, mọi người kính nể, đi đứng nằm ngồi chư Thiên hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh Tam Bảo. Vị Thánh Nữ ấy, bằng mọi phương tiện, đủ lời khuyên ngăn muốn cho bà mẹ phát sinh chính kiến, nhưng mà bà mẹ vẫn chưa tin hẳn, chẳng được bao lâu bà ấy bị chết, thần hồn sa đọa địa ngục Vô Gián. Lúc đó, Thánh Nữ biết ngay mẹ mình khi sống ở đời không tin nhân quả, nay chết ắt đọa theo nghiệp mà sinh vào nơi đường ác, Thánh Nữ thương xót liền bán cửa nhà, mua nhiều hương hoa cùng là phẩm vật, lên chùa tháp Phật làm lễ cúng dàng. O

Đến một ngôi chùa, thấy pho tượng Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai đắp vẽ uy nghi trang nghiêm rực rỡ. Thánh Nữ chiêm bái càng thêm kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: Là bậc Đại Giác Phật đủ trí tuệ, nếu như Đức Phật còn ở tại thế, mà mẹ tôi mất, tôi có thể đến, hỏi nơi Đức Phật chắc biết mẹ tôi sinh ở chốn nào? Nghĩ rồi Thánh Nữ buồn rầu rơi lệ ngưỡng vọng Như Lai.

Bỗng nghe trên không, có tiếng bảo rằng: “Này Thánh Nữ kia, thôi đừng khóc nữa hãy nghe Ta bảo chỗ đọa mẹ ngươi”.

Thánh Nữ hướng lên chắp tay bạch rằng: “Đấng thần nào đấy? Đến giải lòng sầu cho tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đi đến nay, ngày đêm thương nhớ, không biết hỏi đâu? mẹ sinh chốn nào?”

Trên không lại bảo truyền Thánh Nữ rằng: “Ta đây là Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm bái đó, thấy người thương mẹ gấp mấy kẻ thường nên ta mới đến chỉ cho ngươi biết”. O

Thánh Nữ nghe nói liền ngã lăn ra, tay chân mình mẩy, đều bị tổn thương, những người đứng bên vội vàng đỡ lấy, hồi lâu tỉnh dậy rồi hướng hư không mà bạch Phật rằng: “Xin Phật từ mẫn bảo ngay cho chỗ mẹ con thác sinh. Không thời thân tâm của con chết mất”. Đức Phật liền bảo với Thánh Nữ rằng: “Ngươi cúng dàng xong mau trở về nhà rồi ngồi nghiêm chỉnh niệm danh hiệu Ta thì sẽ biết nơi mẹ ngươi sinh đó”.

Sau khi lễ Phật Thánh Nữ về nhà, vì thương mẹ mà ngồi yên ngay thẳng niệm danh hiệu Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai suốt một ngày đêm. Bỗng nhiên thấy mình đến bờ biển kia, nước sôi sùng sục, thú dữ đông đúc; sắt thép là thân nhảy bay trên biển chạy rào bên bên đông, xua đuổi bên tây thấy trăm nghìn vạn đàn ông, đàn bà, khi chìm khi nổi bị các thú dữ tranh nhau ăn thịt. Lại quỷ Dạ Xoa hình thù quái lạ hoặc nhiều tay chân, hoặc nhiều đầu mắt răng nanh nhọn sắc chìa ra như gươm, lùa những tội nhân đến gần thú dữ cho chúng cắn vồ. Rồi quỷ lại túm giật đầu, giật chân những kẻ tội nhân; nhiều cách hành hạ chẳng dám nhìn lâu. Khi ấy Thánh Nữ nhờ sức niệm Phật nên không sợ hãi. O

Có một Quỷ Vương tên là Vô Độc cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: “Hay thay Bồ Tát! Có duyên sự gì mà Ngài đến đây?”

Thánh Nữ bèn hỏi: “Này Quỷ Vương ơi! Đây là chốn nào?”

Vô Độc đáp rằng: “Đây là tầng bể thứ nhất phía tây núi Đại Thiết Vi”.

Thánh Nữ lại hỏi: “Tôi nghe thấy nói ở núi Thiết Vi trong có địa ngục, việc ấy thật không?”

Vô Độc đáp rằng: “Địa ngục có thật”.

Thánh Nữ lại hỏi; “Nay tôi làm sao đến được ngục đó?”

Vô Độc đáp rằng: “Chỉ có hai điều một nhờ uy thần, hai do nghiệp lực ngoài hai điều này không thể đến được”.

Thánh Nữ lại hỏi: “Duyên cớ vì sao mà nước bể này sục sôi như thế, lại lắm tội nhân cùng các thú dữ?”

Vô Độc đáp rằng: “Đây là chúng sinh làm ác ở cõi Nam Diêm Phù Đề mới chết trong khoảng bốn mươi chín ngày, không người kế tự làm việc công đức cứu khổ nạn cho, lúc sống kẻ đó không tạo nhân lành. Nên theo nghiệp cảm dắt vào địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua bể này; phía đông cách đây mười vạn do tuần lại có một bể, sự khổ quá thể còn gấp bội hơn phía đông bể đó lại có bể nữa, nỗi khổ chất chứa nói không thể cùng, đó đều là những nghiệp nhân xấu xa, ba nghiệp cảm ra, cùng gọi bể nghiệp. Chính là ba cái nơi bể này vậy”. O

Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Độc: “Địa ngục ở đâu?”

Vô Độc đáp rằng: “Trong ba bể ấy đều là địa ngục nhiều đến trăm nghìn, mỗi ngục đều khác, số địa ngục lớn có mười tám cửa, kế đó lại có năm trăm ngục nhỏ khổ độp vô chừng, nhỏ hơn thế nữa có nghìn vạn ngục cũng khổ vô chừng”.

Thánh Nữ lại hỏi Đại Quỷ Vương rằng: “Mẹ tôi mới mất, chẳng hay thần hồn phải đọa ngả nào?”

Vô Độc Quỷ- Vương hỏi lại Thánh Nữ: “Thân mẫu Bồ Tát khi người còn sống quen làm nghiệp gì?”

Thánh Nữ đáp rằng: “Mẹ tôi khi sống mê tín tà đạo, chê bai Tam Bảo, có lúc hơi tin, xong lại bất kính, tuy rằng mới chết mà tôi chưa biết đọa lạc vào đâu?”

Vô Độc lại hỏi: “Thân mẫu Bồ tát tên họ là gì?”

Thánh Nữ đáp rằng: “Song thân tôi đều dòng Bà La Môn cha tôi tên là Thi La Thiện Kiến, mẹ tôi thì tên là Duyệt Đế Lợi”. Vô Độc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin thỉnh Thánh Nữ hãy quay trở về, chớ nên đem lòng âu sầu quá nữa, bà Duyệt Đế Lợi tuy có phạm tội xong bà đã được sinh lên cõi Trời ba hôm nay rồi! Đó là nhờ lòng con bà hiếu thuận, nhất tâm tu phúc, bố thí cúng dàng chùa, tháp thờ Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, chẳng những một mình mẹ của Bồ tát được thoát địa ngục mà cả tội nhân ở ngục Vô Gián ngày ấy cũng được hưởng sự vui sướng cùng được thác sinh”. Quỷ Vương nói xong, chắp tay vái chào giã từ mà lui. O

Thánh Nữ lúc đó, như tỉnh giấc mộng biết rõ sự này liền đến trước tháp và tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà nguyện lớn rằng: “Con nguyện từ nay nhẫn đến sau này nếu còn chúng sinh mắc phải tội khổ, thì con lập ra đầy đủ phương tiện khiến cho chúng sinh đều được giải thoát”.

Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: “Quỷ Vương Vô Độc tức là Bồ tát Tài Thủ bấy giờ, còn người con gái dòng Bà La Môn, nay chính là Địa Tạng Bồ Tát vậy”. (1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ HAI: PHÂN THÂN TẬP HỘI

1 - Lúc đó phân thân Địa Tạng Bồ Tát ở khắp trăm nghìn muôn ức địa ngục không thể nghĩ bàn, không thể nói xiết, vô lượng thế giới đều đến đại hội tại Trời Đao Lợi. Nhờ có sức thần của Đức Như Lai, các phân thân ấy cùng với các vị đã được giải thoát tuỳ các phương diện đường nghiệp báo ra kể có hàng nghìn vạn na do tha, cùng cầm hương hoa đến cúng dàng Phật. Những chúng cùng đến đều nhờ Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa giúp cho an trụ nơi Đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác không còn thoái chuyển. Những chúng sinh đó từ kiếp lâu xa đã phải trải qua trong vòng sinh tử ở trong sáu đường, chịu những đau thương không tạm ngừng dứt, nhờ lòng từ mẫn thệ nguyện sâu dầy của Ngài Địa Tạng nên tất cả chúng đều chứng đạo quả. Cả thảy khi đến cung Trời Đao Lợi, lòng họ vui mừng chiêm ngưỡng Như Lai không hoài mỏi mắt. O

2 - Bấy giờ Đức Phật Thế Tôn giơ cánh tay vàng xoa đầu hóa thân Địa Tạng Bồ Tát trăm nghìn muôn ức không thể nghĩ bàn, không thể nói xiết vô lượng Thế giới mà dạy bảo rằng: “Ta ở trong đời ngũ trược xấu xa, giáo hóa chúng sinh ương ngạnh như thế, khiến chúng đều phục bỏ tà theo chính, mười phần chúng sinh, còn vài phần ác. Ta cùng phân thân ra hàng trăm nghìn vạn ức hóa thân, rộng mở phương tiện. Nếu trong chúng có hoặc kẻ lợi căn, nghe liền tin nhận, hoặc kẻ thiện quả, chuyên cần khuyên bảo, sẽ được thành tựu, hoặc kẻ ngu độn, dạy dỗ lâu rồi, cũng hướng tin theo, hoặc kẻ nặng nghiệp, lòng không kính ngưỡng, nhưng bọn chúng ấy, hết thảy khác nhau, Ta đều phân thân độ cho giải thoát

Hoặc hiện ra thân đàn ông đàn bà,

Hoặc hiện ra thân Trời, Rồng, Quỷ, Thần,

Hoặc hiện ra núi, rừng, nguồn, sông, suối, ao, giếng, đầm, hồ, làm lợi cho người, đều được giải thoát.

Hoặc hiện ra thân Thiên Đế,

Hoặc hiện ra thân Phạm Vương,

Hoặc hiện ra thân Vua Chuyển Luân,

Hoặc hiện ra thân Quốc Vương,

Hoặc hiện ra thân Cư Sĩ Hoặc hiện ra thân Tể Phụ,

Hoặc hiện ra thân Quan Lại

Hoặc hiện ra thân Tỷ Khiêu, Tỷ Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cho đến những thân Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật và Bồ tát để hóa độ chúng sinh, chẳng phải chỉ có hiện một thân Phật trước các ngươi đâu.

Địa Tạng! Ông xem Ta đã trải qua bao nhiêu số kiếp nhọc nhằn độ thoát những chúng ương ngạnh khó dạy như thế. Nếu còn có kẻ chưa điều phục được phải theo nghiệp báo, ác đạo đọa vào chịu khổ nghẹn ngào, các ông nên tưởng nhớ đến lời Ta ân cần phó chúc trên Trời Đao Lợi, khiến cho chúng sinh ở cõi Sa Bà đến khi Bồ Tát Di Lặc ra đời, đều được giải thoát hết những nỗi khổ, được Phật thụ ký”. O

Bấy giờ hết thảy các hoá thân của Địa Tạng Bồ Tát ở các thế giới hợp thành một hình, rồi lệ thương cảm mà bạch Phật rằng: “Con từ bao kiếp nay nhờ ơn Phật tiếp độ khiến cho con được thần lực không thể nghĩ bàn, trí tuệ đầy đủ. Nên con Phân thân khắp các thế giới như cát sông Hằng trăm nghìn vạn ức mỗi một thế giới hóa muôn ức thân, mỗi một thân độ trăm nghìn vạn người, khiến cho chúng đều quy kính Tam Bảo, lìa hẳn sinh tử hưởng vui Niết Bàn. Ở nơi Phật Pháp những chúng sinh nào chỉ làm việc lành bằng một sợi tóc, giọt nước, hạt cát, hoặc là nhỏ hơn chỉ một hạt bụi con cũng dần dần độ cho giải thoát được lợi ích lớn.

Địa Tạng Bồ Tát ba lần bạch Phật: “Kính mong Thế Tôn! Xin đừng bận tâm đến các chúng sinh ác nghiệp sau này”. Bấy giờ Đức Phật bèn khen ngợi ngay Địa Tạng Bồ Tát: “Hay thay! Hay thay! Ta hỗ trợ ông cho được toại nguyện, từ bao đời kiếp xa xưa đến nay, thường phát nguyện lớn độ hết chúng sinh, thời ông liền chứng đạo quả Bồ Đề”. (1 vái) OOO

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ BA: NÓI RÕ NGHIỆP DUYÊN CHÚNG SINH

1 - Bấy giờ Thánh Mẫu là bà Ma Gia chắp tay kính bạch Địa Tạng Bồ Tát: “Xin thưa Thánh Giả! Chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề tạo nghiệp khác nhau, cảm thọ quả báo, sự ấy thế nào?”.

Ngài Địa Tạng đáp: “Trong nghìn muôn cõi cho đến các nước nơi có địa ngục, nơi không địa ngục, nơi có đàn bà, nơi không đàn bà, nơi có Phật Pháp, nơi không Phật Pháp, cho đến Thanh Văn cùng Bích Chi Phật tạo nghiệp khác nhau, cảm thọ quả báo cũng đều khác nhau, chớ chẳng phải riêng chỉ có tội báo ở nơi địa ngục khác nhau thôi đâu!”.

Ma Gia phu nhân bà lại bạch rằng: “Tôi nay muốn nghe tội báo trong cõi Nam Diêm Phù Đề chiêu cảm đường ác”.

Ngài Địa Tạng đáp: “Thánh Mẫu lắng nghe! Tôi xin lược thuật”.

Thánh Mẫu bạch rằng: “Xin Ngài Thánh Giả nói cho tôi nghe”.

2 - Bấy giờ Địa Tạng thưa Thánh Mẫu rằng: “Tên những tội báo ở cõi Phù Đề là như thế này: Nếu có chúng nào bất hiếu cha mẹ cho đến giết hại thì phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp cũng không thể biết bao giờ được ra.

Nếu có chúng nào làm Phật chảy máu, huỷ báng Tam Bảo, xem thường Kinh điển, cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp, cũng không thể biết bao giờ được ra.

Nếu có chúng nào, lấn chiếm của chùa, nhơ phạm Tăng Ni, hoặc ở trong chùa tự tình dâm loạn, hoặc giết, hoặc hại, những kẻ như vậy cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp cũng không thể biết bao giờ được ra.

Nếu có chúng nào giả làm Sa Môn, lòng phi Sa Môn, phá của Thường trụ, trái phạm giới luật, khinh bỉ lường gạt những người tại gia gây nhiều tội ác, những hạng như thế, cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp cũng không thể biết bao giờ được ra.

Nếu có chúng nào ăn trộm, ăn cắp của cải nhà chùa, tiền tài, thóc gạo, đồ ăn, thức uống, quần áo cho đến bất cứ thứ gì, không cho tự lấy cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián, kể vạn ức kiếp cũng không thể biết bao giờ được ra.

Ngài Địa Tạng Bồ Tát lại thưa rằng: “Kính bạch Thánh Mẫu! Nếu có chúng sinh gây tội như thế, ắt phải đọa vào ngục năm Vô Gián, cầu tạm ngừng nghỉ giây phút cũng không được”.

Thánh Mẫu lại hỏi Địa Tạng Bồ Tát: “Vì sao gọi là địa ngục Vô Gián “.

Ngài Địa Tạng đáp: “Có bao địa ngục trong núi Thiết Vi, những địa ngục lớn có mười tám ngục, kế đó lại có năm trăm ngục nữa tên gọi khác nhau, kế đó lại có hàng nghìn ngục nữa tên cũng khác nhau.

Những địa ngục ấy, thành toàn bằng sắt, cao một muôn dặm, chu vi ức dặm, lửa cháy trên thành không chỗ nào hở, trong thành, các ngục đều nối liền nhau, tên đều khác nhau.

Chỉ có một ngục, gọi là Vô Gián, ngục này chu vi, kể có ức dặm, tường cao nghìn dặm, toàn bằng sắt cả, lửa cháy trên dưới, hừng hực bốc ra; ở trên tường ngục, chó sắt, rắn đồng, phun lửa đuổi nhau, khắp nơi ngục ấy. Trong ngục này có cái giường biến hiện, rộng hàng muôn dặm, một người có tội, nằm thấy chật giường, vạn người có tội, nằm cũng chật giường, là do tội nghiệp cảm ra như thế.

Lại những tội nhân, chịu mọi sự khổ: Trăm nghìn Dạ Xoa cùng lũ quỷ ác, răng nhọn như gươm, mắt loé như chớp, móng tay tựa đồng, móc ruột xâu xé, lại có Dạ Xoa cầm chĩa sắt lớn đâm vào tội nhân, hoặc đâm vào mình, vào mồm, vào mũi, vào bụng, vào lưng, tung lên trên không, đưa chĩa hứng lấy lại ném xuống giường, rồi lại đâm tiếp. Còn có chim sắt mổ mắt tội nhân, lại có loài trăn quấn đầu kẻ tội, rồi lại đóng đinh khắp cả thân mình, cặp kìm kéo lưỡi, lôi ra cày xới và nước đồng sôi đổ tuôn vào miệng. Sắt nóng quấn thân hàng nghìn vạn lần chết đi sống lại, các nghiệp báo ấy trải muôn ức kiếp, cũng không thể biết bao giờ được ra.

Dù cho đến khi thế giới này hoại, chuyển thế giới khác; khi thế giới ấy, lại hoại lại chuyển sang thế giới khác; thế giới phương ấy, lại hoại tiếp nữa, thì cứ lần lượt mà chuyển tiếp đi cho đến sau khi thế giới cũ thành, lại phải quay về chịu quả báo tiếp.

Những sự tội báo trong ngục Vô Gián là như thế đấy.

Lại địa ngục đó có năm nghiệp cảm nên mới gọi là: Năm Vô Gián tội.

Những gì là năm?

Một là! Ngày đêm chịu tội, bao kiếp không hề gián đoạn, nên gọi Vô Gián.

Hai là! Một kẻ nằm cũng chật ngục nhiều cũng chật ngục, nên gọi Vô Gián.

Ba là! Khí cụ để hành tội như: Gươm, đao, sào, gậy, cưa, đục, giáo, mác, cối giã, cối xay, chày đồng, lưới sắt, chim, chó, rắn, rết, voi xéo, ngựa giày, những thứ vật này, cấu, nhai, băm, chặt; đói ăn gỉ sắt, khát uống nước đồng, khổ cực chất chồng, tháng năm liên tiếp. Kể vô số kiếp không ngơi ngớt dừng, nên gọi Vô Gián.

Bốn là! Bất luận đàn ông, đàn bà, trẻ già, mọi rợ, giàu sang, hèn hạ, Trời, Rồng, Quỷ, Thần đã gây ra tội tất phải theo nghiệp mà chịu quả báo, nên gọi Vô Gián.

Năm là! Nếu phải đọa vào ngục ấy, từ khi mới vào đến trăm nghìn kiếp trong một ngày đêm chết đi sống lại có hàng vạn lần, cầu xin tạm ngơi một giây không được, trừ khi sạch nghiệp mới được đầu thai, vì khổ liên miên, nên gọi Vô Gián”.

Ngài Địa Tạng lại thưa Thánh Mẫu rằng: “Địa ngục Vô Gián, tôi chỉ mới nói lược qua như thế. Nếu nói rộng ra tên những khí cụ, để hành tội nhân cùng sự thống khổ trong địa ngục đó, dẫu nói một kiếp cũng không hết được”.

Ma Gia phu nhân nghe rồi ảo não, chắp tay cung kính đỉnh lễ mà lui. (1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ TƯ: NGHIỆP CẢM CỦA
CHÚNG SINH

1 - Khi đó Địa Tạng bạch Đức Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Vì con nhờ sức uy Đức Như Lai nên mới phân thân được thân hình này, đi khắp trăm nghìn vạn ức thế giới, cứu độ chúng sinh đang bị nghiệp báo, nếu không nhờ sức đại từ của Phật thời chẳng biến hiện ra được như thế. Con nay lại được Như Lai phó chúc: “Từ nay đến khi Ngài A Dật Đa thành Phật thì phải độ thoát hết thảy chúng sinh khắp trong sáu đường; con xin vâng lời. Bạch Đức Thế Tôn! Đừng bận tâm nữa”.

Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng: “Tất cả chúng sinh chưa được giải thoát tính thức không định, quen làm điều ác kết thành nghiệp xấu; quen làm điều lành kết, thành quả tốt; làm thiện làm ác theo cảnh mà sinh luân chuyển năm đường không lúc nào ngớt, trải qua nhiều kiếp như số bụi trần, mê lầm chướng nạn như cá trong lưới theo dòng nước chảy thoạt vào lại ra, thoạt ra lại vào. Vì chúng như thế nên Ta thương lắm. Nay ông muốn làm theo lời phát nguyện đã từ bao đời, độ cho hết thảy những lũ ấy thì Ta lo gì nữa “.

2 - Khi ấy Đức Phật nói đến đấy xong, ở trong Pháp Hội có một vị Đại Bồ Tát hiệu là: Định Tự Tại Vương bạch Đức Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Từ bao đời kiếp Địa Tạng Bồ tát đã phát nguyện gì mà nay được Đức Thế Tôn khen ngợi ân cần như thế? Xin Đức Thế Tôn nói qua để cho chúng con được biết.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Bồ tát Định Tự-Tại-Vương: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ngẫm nghĩ cho kỹ Ta sẽ vì ông mà giải thuyết cho”.

3 - Xưa kia đến nay không biết bao nhiêu là na do tha, A Tăng Kỳ Kiếp. Lúc đó có Phật ra đời hiệu là: Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri Minh Hạnh-Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó thọ tới sáu muôn kiếp, thuở chưa xuất gia, Ngài còn làm Vua ở một nước nhỏ, cùng kết bạn với Vua nước láng giềng, hai Vua phát tâm cùng tu thập thiện để làm lợi lạc cho khắp nhân dân.

Thấy nước láng giềng, dân hay làm ác, hai Vua bàn bạc, tìm mọi phương pháp để dắt dìu dân.

Một ông phát nguyện: “Cầu sớm thành Phật, để độ dân chúng, không sót một người, vui tươi giải thoát”.

Ông kia cũng nguyện: “Nếu không độ được hết khổ cho dân đều được an vui, đến ngôi Bồ Đề, thì tôi nguyện thề chưa thành Phật vội”.

Phật bảo Bồ Tát Định Tự Tại Vương: “Ông Vua phát nguyện sớm thành Phật là Đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai.

Còn Vua kia nguyện nếu chưa độ hết chúng sinh khổ não, thời chưa chịu nguyện để được thành Phật, đó chính là Ngài Địa Tạng Bồ Tát”.

4 - Lại từ xưa kia cách đây không biết bao Tăng Kỳ Kiếp, có Phật ra đời là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, thọ mệnh của Ngài là bốn mươi kiếp, trong đời tượng pháp có vị La Hán phúc độ chúng sinh, nhân đi giáo hóa gặp một nữ nhân tên là Quang Mục, người nữ nhân này sắm sửa đồ chay, cúng dàng La Hán.

Vị La Hán hỏi: “Ngươi muốn cầu gì”? Quang Mục thưa rằng: “Ngày mẹ con mất, con làm việc thiện, để nhờ phúc đó mà cứu mẹ con, không hiểu mẹ con thác sinh ngả nào?”

La Hán nghe nói, Ngài động lòng thương nhập định quán thấy mẹ của Quang Mục phải đọa đường ác cực khổ vô cùng.

Lúc đó La Hán hỏi Quang Mục rằng: “Khi mẹ con sống đã làm nghiệp gì mà nay đương phải đọa trong đường ác chịu quả khổ thế?”

Quang Mục thưa rằng: “Mẹ con thường thích ăn cá, ba ba, lại ưa ăn trứng của những loài đó, hoặc rán, hoặc nấu mải miết vào ăn. Nếu tính đếm số loài kia bị hại kể vạn vạn lần. Con xin Tôn giả từ mẫn chỉ cho phải làm cách nào cứu được mẹ con?”

La Hán thương xót, bèn dạy phương tiện khuyên Quang Mục rằng: “Con nên chí thành chuyên niệm danh hiệu Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và tô, vẽ, khắc hình tượng Đức Phật, thời khiến kẻ còn, cùng những người mất đều được phúc lợi”.

Quang Mục nghe xong, liền xuất tiền của, tô, đắp tượng Phật, chí thành cúng dàng lại dốc một lòng cung kính chiêm lễ. Cảm sự thương khóc bỗng nhiên đêm đó, chiêm bao thấy Phật thân vàng rực rỡ như núi Tu Di hào quang sáng láng, bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu nữa mẹ con sẽ lại sinh vào nhà con! Vừa biết đói rét, đã biết nói ngay”.

Quả nhiên sau đó, đứa đầy tớ gái trong nhà sinh ra được một bé con chưa được ba ngày mà đã biết nói.

Bé kia đau khóc bảo Quang Mục rằng: “Cho hay quả báo nghiệp duyên sinh tử mình phải nhận lấy, ta đây xưa kia là mẹ của con, bấy lâu phải ở những chỗ tối tăm, từ lúc lìa con phải đọa địa ngục, may nhờ phúc lực, của con giúp sức, mới được đầu thai, làm kẻ hèn hạ, sự sống ngắn ngủi được mười ba tuổi, rồi bị chết non, lại đọa đường ác; con có cách gì, khiến cho mẹ được mau giải thoát chăng?”

Quang Mục nghe nói, biết đích mẹ mình, nghẹn ngào thương khóc, thưa với bé kia con của đầy tớ: “Nếu quả mẹ tôi, thời phải tự biết tội lỗi của mình, đã thành nghiệp gì, mà bị đọa vào đường ác”.

Bé kia đáp rằng: “Vì hai cái nghiệp một là giết hại, hai là chửi rủa cho nên chịu báo. Nếu không nhờ được phúc đức của người cứu nạn cho ta, thời hai nghiệp đó chưa thể thoát được”.

Quang Mục lại hỏi: “Sự thể tội báo trong ngục thế nào?”

Bé kia lại đáp: “Những tội khổ ấy không nỡ nói ra, dẫu mà có nói đến trăm nghìn năm, cũng không hết được”.

Quang Mục nghe rồi, hướng lên trên không rơi lệ mà rằng: “Nguyện cho mẹ con thoát hẳn địa ngục. Hết tuổi mười ba không còn tội nặng và không phải đọa vào đường ác nữa. Xin khắp mười phương chư Phật xót thương chứng minh công đức, con nay vì mẹ phát đại nguyện rằng: “Nếu mẹ con được lìa hẳn ba ngả và nơi hèn hạ, cho đến đời đời không làm thân nữ, thì con xin nguyện đối trước tượng Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, từ nay trở đi cho đến nghìn vạn ức kiếp sau này, hễ thế giới nào mà còn chúng sinh chịu khổ trong ngục và ba đường ác, thì con còn nguyện cứu vớt hết thảy khiến cho họ được thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Những kẻ mắc phải tội báo như thế, thành Phật cả rồi, con mới lên ngôi Chính Đẳng Chính Giác”.

Dứt lời nguyện liền nghe thấy Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai bảo rằng: “Này Quang Mục con! Có lòng từ mẫn vì mẹ phát ra, lời thệ nguyện lớn thật là hay lắm! Ta quan sát thấy mãn hạn mẹ ngươi, mười ba tuổi đời, bỏ báo thân ấy, sẽ được thác sinh làm người Phạm Chí, sống lâu trăm tuổi, sau đó vãng sinh về nước Vô Ưu, sống lâu đến số không thể tính kể, rồi sau thành Phật, độ khắp Trời, người, số nhiều bát ngát như cát sông Hằng”.

Phật bảo Bồ tát Định Tự Tại Vương: “La Hán lấy phúc độ cho Quang Mục thuở đó là Vô Tận Ý Bồ Tát, mẹ Quang Mục là Bồ Tát Giải Thoát! Còn nàng Quang Mục chính thực là Ngài Địa Tạng Bồ tát. Trong nhiều kiếp trước mở lòng từ mẫn, Địa Tạng Bồ Tát đã phát nguyện nhiều như cát sông Hằng độ khắp chúng sinh cho nên như thế, sang đời sau này, nếu có chúng sinh không chịu làm lành, mà chỉ làm ác cho chí không tin vào luật nhân quả nói lưỡi hai chiều, gian dâm, ác khẩu, huỷ báng Đại Thừa, những chúng sinh này gây những nghiệp ấy tất đọa đường ác. Nếu gặp được thiện tri thức khuyên bảo quy y với Ngài Địa Tạng Bồ Tát, dù chỉ một lát những chúng sinh này đều giải thoát ngay khỏi ba đường ác. Nếu người chí tâm quy kính chiêm ngưỡng, đỉnh lễ khen ngợi, lại dâng hương hoa, các thứ ăn uống, y phục châu báu cúng dàng Bồ Tát, thời người đó được hưởng ở cõi Trời, vui thú thảnh thơi thọ muôn ức kiếp, sau khi hưởng hết phúc ở cõi Trời, sinh xuống làm người hàng trăm nghìn kiếp, được làm vua chúa và nhớ lại được nguồn gốc nhân quả kiếp trước của mình.”

Định Tự Tại Vương! Như thế đủ biết Địa Tạng Bồ Tát có sức uy thần làm lợi chúng sinh không thể kể xiết. Các ông đã là những bậc Bồ tát, cần nên ghi nhận, nhớ lấy Kinh này để rồi truyền bá cho rộng khắp ra”.

Ngài Định Tự Tại Vương bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Xin đừng bận tâm, chúng con đã có hàng nghìn vạn ức các Đại Bồ Tát đều có thể nương uy thần của Phật, mà giảng Kinh này khắp cõi Phù Đề làm lợi chúng sinh”.

Ngài Định Tự Tại Vương Bồ Tát bạch Đức Thế Tôn xong, chắp tay cung kính đỉnh lễ mà lui.

5 - Bấy giờ bốn ông Thiên Vương cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ tát bao kiếp tới nay đã phát nguyện lớn, làm sao đến giờ vẫn chưa độ được hết thảy chúng sinh mà nay Ngài còn lại phải phát nguyện lớn như thế nữa? Cúi xin Đức Phật hãy vì chúng con mà chỉ giáo cho”.

Đức Phật liền bảo Tứ Thiên Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Ta vì các ông cùng các Trời, người đời nay đời sau, mở đường lợi ích mà nói ra những sự phương tiện của Địa Tạng Bồ Tát độ thoát chúng sinh, trong đường sống chết thương xót cứu vớt nơi Diêm Phù Đề cõi Sa Bà này, hết thảy tội khổ”.

Bốn ông Thiên Vương bạch rằng: “Kính vâng! Lạy Đức Thế Tôn chúng con muốn nghe”.

6 - Đức Phật lại bảo Tứ Thiên Vương rằng: “Từ kiếp xa xưa cho đến ngày nay, Địa Tạng Bồ tát độ thoát chúng sinh vẫn chưa mãn nguyện, vì thương xót chúng khổ não đời này lại quán thấy rõ vô lượng kiếp sau, tội khổ triền miên, mãi mà không dứt, cho nên lại phát ra lời trọng nguyện. Địa Tạng ở cõi Nam Diêm Phù Đề Sa Bà thế giới dùng trăm nghìn ức các phép phương tiện giáo hóa chúng sinh.

Này Tứ Thiên Vương! Địa Tạng Bồ tát:

-       Nếu gặp kẻ sát, thì dạy cho biết vì mầm họa ấy chịu báo chết non.

-       Gặp kẻ trộm cắp thì dạy cho biết sẽ bị quả báo nghèo đói khổ sở.

-       Gặp kẻ tà dâm, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo làm loài chim sẻ.

-       Gặp kẻ ác khẩu, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo họ hàng mắng nhiếc.

-       Gặp kẻ dèm chê, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo mất lưỡi lở mồm.

-       Gặp kẻ giận dữ, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo thân hình xấu xa.

-       Gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo cầu mong không được.

-       Gặp kẻ ăn bậy, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo đói khát đau khổ.

-       Gặp kẻ săn bắn, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo suốt đời tàn tật.

-       Gặp kẻ đốt rừng, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo mê cuồng đến chết.

-       Gặp kẻ bắt chim, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo cốt nhục chia lìa.

-       Gặp kẻ kiêu ngạo thì dạy cho biết sẽ bị quả báo làm thân tôi đòi.

-       Gặp kẻ mê tín, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo sinh nơi hẻo lánh.

-       Gặp kẻ châm chọc, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo ngọng lưỡi hôi mồm.

-       Gặp kẻ ngược đãi, ông bà, cha mẹ, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo trời tru đất diệt.

-       Gặp kẻ làm cha mẹ dượng độc ác, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo roi vọt đời sau.

-       Gặp kẻ phỉ báng phá ngôi Tam Bảo, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo câm ngọng mù điếc.

-       Gặp kẻ khinh nhờn chê bai giáo-pháp, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo đọa vào đường ác.

-       Gặp kẻ phá hại của cải Thường trụ, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo ức kiếp địa ngục.

-       Gặp kẻ đã phá Tăng-Già phạm hạnh, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo đọa mãi súc sinh.

-       Gặp kẻ phá bỏ giới luật phạm trai, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo cầm thú đói khát.

-       Gặp kẻ thui nấu, chém giết sinh vật, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo luân hồi đền mạng.

-       Gặp kẻ phung phí của cải bừa bãi, thì dạy cho biết sẽ bị quả báo thiếu thốn đủ đường.

Những chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Đề từ thân, khẩu, ý nghiệp ác kết tập, trăm nghìn muôn sự báo ứng như thế, nay mới chỉ nói lược qua đó thôi. Nghiệp cảm chúng sinh cõi Diêm Phù Để khác nhau như thế, nên Địa Tạng dùng trăm nghìn phương tiện giáo hóa cho họ. Những chúng sinh ấy, trước phải chịu lấy các quả báo này, sau đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp không biết lúc nào mới được thoát ra, cho nên các ông bảo vệ muôn dân hộ trì đất nước, chớ để cho những nghiệp chướng mê hoặc làm hại chúng sinh”.

Bốn ông Thiên Vương nghe rồi rơi lệ, than thở, chắp tay lễ Phật mà lui. (1 vái) OOO

(KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN HẾT QUYỂN THƯỢNG)

Trên cung Trời Đao Lợi

Địa Tạng Bản nguyện Kinh

Thần thông Phật hiển hóa

Độ mê khắp quần sinh

Đời ngũ trược khó tỉnh

Ương ngạnh lũ hữu tình

Ham vui nên chịu khổ

Họa phúc đều do mình.

Nam mô Thượng Trụ Thập phương Phật. (3 lần) 1 vái OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN PHẨM THỨ NĂM: TÊN CÁC ĐỊA NGỤC

1 - Khi bấy giờ Ngài Phổ Hiền Bồ tát bạch Địa Tạng rằng: “Thưa bậc nhân giả! Ngài vì Trời, Rồng, tám bộ lại cùng hết thảy chúng sinh đời này, đời sau mà nói danh hiệu của những địa ngục là chỗ thụ báo tội khổ chúng sinh ở cõi Sa Bà cùng Diêm Phù Đề và nói những sự quả báo không lành, làm cho chúng sinh trong thời mạt pháp sau này biết rõ những quả báo đó” Ngài Địa Tạng đáp: “Xin thưa nhân giả! Nay tôi nhờ có uy thần của Phật cùng sức của Ngài, mà nói danh hiệu của các địa ngục cùng những tội báo và sự ác báo”. O

2 - Xin thưa nhân giả! Ở về phía đông Nam Diêm Phù Đề có một dãy núi tên gọi Thiết Vi, núi ấy tối om không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ngục lớn là Cực Vô Gián. Lại có địa ngục gọi là A Tỳ

Lại có địa ngục gọi là Bốn Cạnh.

Lại có địa ngục gọi là Dao Bay.

Lại có địa ngục gọi là Giáo Đâm.

Lại có địa ngục gọi là Tên Lửa.

Lại có địa ngục gọi là Thổi Lửa.

Lại có địa ngục gọi là Núi Kẹp.

Lại có địa ngục gọi là Nhà Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Giường Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Áo Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Áo Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Viên Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Xe Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Trâu Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Lừa Sắt.

Lại có địa ngục gọi là Thiên Nhận.

Lại có địa ngục gọi là Khoét Mắt.

Lại có địa ngục gọi là Cày Lưỡi.

Lại có địa ngục gọi là Chém Đầu.

Lại có địa ngục gọi là Thiêu Thân.

Lại có địa ngục gọi là Đồng Sôi.

Lại có địa ngục gọi là Cột Nóng.

Lại có địa ngục gọi là Cãi Cọ.

Lại có địa ngục gọi là Nóng Giận.

Ngài Địa Tạng Bồ Tát lại bạch rằng: O

“Xin thưa nhân giả! Trong núi Thiết Vi có nhiều địa ngục, vô số như thế nhiều không thể kể. Lại còn có những tên ngục gọi là:

Địa ngục Kêu Gào, địa ngục Lôi Lưỡi.

Địa ngục Cưa Răng, địa ngục Lột Da,

Địa ngục Uống Máu, địa ngục Phân Nước,

Địa ngục Đâm Ngược, địa ngục Khoá Đồng,

Địa ngục Đốt Tay, địa ngục Đốt Chân,

Địa ngục Nhả Lửa, địa ngục Giường Lửa,

Địa ngục Hầm Lửa, địa ngục Núi Lửa,

Địa ngục Đá Lửa, địa ngục Voi Lửa,

Địa ngục Chó Lửa, địa ngục Ngựa Lửa,

Địa ngục Trâu Lửa, địa ngục Chim Lửa.

Những ngục như thế: Trong mỗi ngục lớn có những ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến trăm nghìn tên các địa ngục đều gọi khác nhau”. Ngài Địa Tạng bạch Đức Phổ Hiền rằng: “Xin thưa nhân giả! Đó đều là do chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề làm những điều ác, theo nghiệp chiêu cảm mà hiện ra những địa ngục như thế, nghiệp lực rất lớn, ngang núi Tu Di, sâu như biển cả hay làm chướng đạo, vì thế chúng sinh chớ nên coi thường những điều ác nhỏ cho là vô tội, sau khi chết rồi, dù cho tội nhỏ như sợi tóc tơ cũng đều chịu báo, kể cả cha con là chỗ thân tình cũng phải mỗi người đi theo mỗi ngả, dầu có gặp nhau cũng không thể chịu thay cho nhau được. Nay tôi nhờ uy thần lực của Phật, nói qua tội báo ở trong địa ngục mong rằng nhân giả tạm nghe lời đó”. Ngài Phổ Hiền đáp: “Tuy tôi từ lâu đã rõ tội báo trong ba đường, ác, nhưng nay tôi muốn nhân giả nói ra để cho hết thảy chúng sinh làm ác ở đời mạt pháp, nghe lời nhân giả mà biết quy y Giáo Pháp của Phật”. O

3 - Ngài Địa Tạng nói: “Xin thưa nhân giả! Những sự tội báo trong ngục hoặc như Địa ngục kéo lưỡi kể tội lôi ra để cho trâu cày, hoặc có địa ngục moi tim kẻ tội cho Dạ Xoa ăn, hoặc có địa ngục vạc dầu sôi sục nấu kẻ tội can, hoặc có địa ngục cột đồng cháy đỏ bắt kẻ tội ôm, hoặc có địa ngục lửa mạnh phun ra phóng vào kẻ tội;

Hoặc có địa ngục lạnh như băng giá

Hoặc có địa ngục phân nước vô kể

Hoặc có địa ngục chông gai, chuỳ sắt

Hoặc có địa ngục đâm nhiều giáo lửa

Hoặc có địa ngục chỉ đập ngực, lưng

Hoặc có địa ngục chỉ đốt chân, tay

Hoặc có địa ngục cho rắn sắt cắn

Hoặc có địa ngục chó sắt xua đuổi

Hoặc có địa ngục buộc vào lừa sắt.

Xin thưa nhân giả! Những nghiệp báo ấy trong mỗi địa ngục đều có trăm nghìn thứ đồ hành tội bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa. Mỗi thứ đồ ấy đều do hành nghiệp, tội của chúng sinh mà cảm ứng ra. Nếu tôi nói rộng những sự tội báo ở trong địa ngục thì trong mỗi ngục lại còn trăm nghìn thứ khổ sở nữa, huống chi nhiều ngục! Nay tôi thừa sự uy thần của Phật và nhân giả hỏi, mà nói lược qua, nếu nói rộng ra dẫu cho cả kiếp cũng không hết được”. (1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN PHẨM THỨ SÁU: NHƯ LAI TÁN THÁN CÔNG ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT

1 - Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn chuyển thân phóng hào quang lớn, chiếu khắp muôn ức Hằng hà sa cõi nước của chư Phật, xuất đại âm thanh mà bảo hết thảy các Đại Bồ Tát, Thiên, Long, quỷ, Thần, Nhân và Phi Nhân ở các cõi rằng: “Nay lắng nghe Ta, khen ngợi bày tỏ về công đức của Địa Tạng Bồ Tát đã hiện ra khắp mười phương thế giới, từ bi thần lực không thể nghĩ bàn để độ hết thảy tội khổ quần mê. Sau Ta diệt độ, thời hàng Bồ Tát Đại sĩ các ông cùng với Trời, Rồng, Quỷ, Thần, nhân đẳng, cần rộng phương tiện hộ vệ Kinh này, làm cho tất cả mọi loài chúng sinh đều thoát hết khổ vui chứng Niết Bàn”. O

2 - Phật nói dứt lời, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát hiệu là Phổ Quảng cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Nay con nghe Đức Thế Tôn khen ngợi Địa Tạng Bồ Tát có sức uy thần không thể nghĩ bàn. Kính xin Thế Tôn! Hãy vì chúng sinh đời mạt Pháp này, mà nói rõ cho những sự nhân quả của Ngài Địa Tạng đã làm lợi ích cho khắp Trời, người khiến cho các hàng Thiên, Long, tám bộ cùng các chúng sinh ở đời sau này kính vâng lời Phật”.

Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng cùng tứ chúng rằng: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói qua những việc phúc đức của Địa Tạng làm lợi ích nhân, Thiên, để các ông nghe”. Phổ Quảng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: “Kính vâng! Lạy Phật! Chúng con muốn nghe”. O

3 - Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ Tát: “Về đời sau này, nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, hoặc là chắp tay, hoặc là khen ngợi, hoặc là đỉnh lễ, hoặc là mếm mộ, thì người ấy thoát khỏi mọi tội lỗi trong ba mươi kiếp.

Này Phổ Quảng ơi! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào tô vẽ hình tượng hoặc lấy đất, đá, keo, sơn, vàng, bạc, đồng, sắt, đắp tượng Địa Tạng Bồ Tát chiêm ngưỡng lễ bái, thì người ấy được trăm lần sinh lên ba ba cõi Trời, vĩnh viễn không đọa vào đường ác nữa. Giả thử hưởng hết phúc ở cõi Trời lại xuống nhân gian cũng được làm Vua không mất lợi lớn. O

4 - Nếu có người nữ chán ghét thân nữ tận tâm cúng dàng tượng Địa Tạng bằng tranh ảnh, đất, đá, keo sơn, vàng, bạc, đồng, sắt, ngày ngày như thế không hề chán nản, thường đem hương hoa, các thứ ăn uống, mũ áo lụa là, tràng phan, tiền bạc, bảo vật dâng cúng, thì thiện nữ ấy sau khi hết một báo thân nữ này, thì muôn kiếp sau chẳng còn phải sinh vào cõi phụ nữ, huống là phải chịu làm thân nữ ư! Trừ khi vì lòng từ bi phát nguyện, cần thụ thân nữ để độ chúng sinh.

Như vậy cho thấy, nhờ sức cúng dàng Địa Tạng Bồ tát và sức công đức cho nên hàng trăm nghìn vạn ức kiếp chẳng còn phải chịu làm thân nữ nữa. O

5 - Lại thế này nữa, Phổ Quảng Bồ Tát! Nếu có người nữ chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, chỉ cần thành tâm chiêm lễ trước tượng Địa Tạng Bồ Tát lâu bằng bữa ăn, người ấy trong hàng nghìn vạn kiếp sau, tất sinh làm người đầy đủ tướng mạo không có bệnh tật. Nếu như người nữ thân xấu xí kia không chán thân nữ, thì muôn ức kiếp thường được làm thân công chúa, vương phi dòng dõi nhà quan, hay con Trưởng Giả, hình vóc đoan trang, tướng mạo xinh đẹp, đó là bởi lòng chí thành kính lễ Địa Tạng Bồ tát cho nên được hưởng phúc báo như thế. O

6 - Lại nữa Phổ Quảng! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào thường đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát dâng tấu âm nhạc ca hát tán thán, cúng dàng hương hoa cho đến khuyên hóa, một hay nhiều người cũng làm như thế thì những người ấy ngay trong đời này và cả đời sau thường được trăm nghìn các vị Quỷ, Thần, ngày đêm hộ vệ, không cho những sự ác lọt vào tai, huống còn phải chịu những sự tai vạ bất ngờ hay sao? O

7 - Lại còn đây nữa, Phổ Quảng Bồ Tát! Trong đời sau này nếu có ác nhân, ác Thần, ác Quỷ, thấy có thiện nam, thiện nữ quy y cung kính tán thán chiêm lễ hình tượng Địa Tạng Bồ tát mà lại dèm chê, báng bổ cho là không có công đức, không lợi ích gì, hoặc nhe rằng cười, hoặc chê sau lưng, hoặc chê trước mặt, xui người cùng chê, xui một người chê hay nhiều người chê, dù chỉ một niệm sinh lòng dèm chê; những kẻ như thế, đến đời Hiền Kiếp khi nghìn ức Phật nhập diệt qua rồi tội báo khinh chê vẫn còn bị đọa trong ngục A Tỳ chịu tội cực khổ qua kiếp ấy rồi, thụ thân ngạ quỷ trải hàng nghìn kiếp, lại làm súc sinh qua nghìn kiếp nữa mới được làm người. Dù được làm người cũng hạng hèn hạ, các căn không đủ, bị nhiều nghiệp ác ràng buộc vào mình, chẳng được bao lâu lại đọa đường ác. Lại Phổ Quảng này! Chỉ vì khinh chê người khác cúng dàng, mà còn mắc phải tội báo như thế, huống chi tự mình sinh tâm ác kiến phá huỷ thì sao? O

8 - Này Phổ Quảng ơi! Nếu đời sau này có thiện nam nào hay thiện nữ nào, ốm đau lâu ngày, liệt giường liệt chiếu cầu sống chẳng được, cầu chết chẳng được, hoặc đêm nằm mộng thường thấy Quỷ, Thần hay là người thân, dẫn đi đường hiểm, hoặc bị bóng đè, hoặc nghe ác Quỷ; ngày tháng năm dài chuyển thành bệnh trọng; trong lúc ngủ mê kêu gào thê thảm chẳng được yên vui. Đó đều là vì đang xét tội nghiệp, chưa định nặng nhẹ, cho nên muốn chết không chết đi được, muốn khỏi không khỏi; kẻ phàm mắt tục không rõ việc ấy. Phải nên đến trước tượng Phật, Bồ Tát, lên tiếng đọc tụng Kinh này một biến, hoặc lấy các thứ của kẻ bệnh nhân thường hay ưa thích như là châu báu, ruộng vườn, nhà cửa, đối trước người bệnh mà nói to rằng: “Chúng con tên là … Nay vì bệnh nhân ... Đối trước Kinh tượng, đem các thứ này cúng dàng Kinh tượng, hoặc tạo Kinh tượng Phật và Bồ Tát, hoặc xây chùa, Tháp, hoặc mua dầu đèn, hoặc cúng Thường trụ”. Bạch lên ba lần khiến cho người bệnh nghe tiếng như thế; giả thử thần thức của kẻ bệnh nhân đã bị phân tán hay đã tắt nghỉ, thì hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, cứ lớn tiếng bạch và tụng Kinh này, kẻ bệnh nhân đó sau khi chết rồi dù cho từ trước có những tội nặng đọa ngục Vô Gián cũng được thoát hẳn, sinh vào cảnh nào, cũng thường nhớ biết kiếp trước của mình, huống chi thiện nam hay thiện nữ nào, tự mình biên chép, hoặc là bảo người biên chép Kinh này, hoặc là tự mình hay bảo người tạo hình tượng Bồ Tát, người đó tất được phúc báo lớn lao.

Này Phổ Quảng ơi! Vì thế nên ông thấy có người nào đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ trong một niệm khen ngợi, hoặc là cung kính đối với Kinh này, thời ông nên dùng trăm nghìn phương tiện khuyên dạy người đó, một lòng chăm chỉ, chớ đừng chán bỏ, thì ngay đời này và cả đời sau, sẽ được trăm nghìn vạn ức công đức không thể nghĩ bàn. O

9 - Lại thế nữa, Phổ Quảng Bồ Tát! Nếu như chúng sinh trong đời sau này; hoặc khi mơ mộng thấy các Quỷ, Thần và các hình lạ, hoặc là buồn bã khóc lóc thở than, rầu rĩ kêu van, hãi hùng sợ sệt. Đó đều là do họ hàng mẹ cha, hoặc là con cái vợ chồng nội ngoại về những kiếp xưa, hoặc là một đời, trăm đời, nghìn đời, đương đọa ngả ác chưa được ra thoát, không chỗ trông mong vào phúc lực nào để cứu khổ não, nên mới tìm về cầu cứu những người quyến thuộc kiếp xưa, khiến làm phương tiện cầu nguyện thoát cho khỏi các đường ác. Này Phổ Quảng ơi! Ông nên dùng sức uy thần khiến cho các quyến thuộc ấy đều đối trước tượng chư Phật, Bồ tát, dốc lòng thành kính tụng đọc Kinh này, hoặc thỉnh người đọc đủ số ba biến cho đến bảy biến. Như vậy thì những quyến thuộc đang mắc trong đường ác kia, nghe tiếng tụng Kinh, khi đủ số biến, liền được giải thoát. Từ đấy trở đi, trong lúc chiêm bao, không còn mơ thấy ai hiện về nữa. O

10 - Lại nữa Phổ Quảng! Nếu đời sau này có những hạng người nô tỳ hèn hạ, cho đến những người mất quyền tự do, đều biết rõ vì nghiệp xưa của mình đời trước gây ra, nay cần sám hối, thời phải chí tâm chiêm lễ hình tượng Địa Tạng Bồ tát, trong cả bảy ngày và niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ tát đủ một vạn lần, thì những hạng ấy, khi chịu hết nghiệp báo thân hèn hạ, trong đời này rồi, về trăm nghìn kiếp ở vào đời sau, thường sinh vào hàng dòng dõi tôn quý, không còn bao giờ phải sa đọa vào ba đường ác nữa. O

11 - Lại nữa Phổ Quảng! Về đời sau này, nơi Diêm Phù Đề, hàng Sát Đế Lợi và Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, cả các bậc ấy, cùng dòng họ khác, và các dân tộc, như có người nào mới sinh nở được, bé trai, bé gái trong vòng bảy ngày, sớm vì đứa bé mà tụng Kinh điển không xiết nghĩ bàn, lại vì đứa bé mà niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ tát, đủ một vạn lần, nếu được như vậy, thời đứa bé đó dù cho kiếp trước có gây tội chi, đều được giải thoát, đứa bé yên ổn, vui vẻ dễ nuôi, lại được sống lâu. Nếu như đứa bé kiếp xưa sẵn có phúc đức thụ sinh, càng thêm vui hơn, được sống lâu hơn. O

12 - Lại thế này nữa Phổ Quảng Bồ tát! Về đời sau này, trong tháng những ngày mồng một, mồng tám, mười tư, mười rằm, mười tám, hai ba, hai bốn, hai tám, hai chín, ba mươi, đó là những ngày kết tập xử tội, định nghiệp nặng nhẹ. Các chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Đề suy nghĩ hành động, đều là nghiệp cả, đều là tội cả huống hồ lại còn phóng túng giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ đủ điều, gây ra trăm nghìn thứ tội nữa ư.

Nếu chúng sinh nào mười ngày trai ấy, đối trước hình tượng chư Phật, Bồ Tát và các Thánh Hiền, tụng đọc một biến trong khóa Kinh này, thì khắp đông, tây, nam, bắc, trong vòng một trăm do tuần, đều hết tai nạn. Ngay trong nhà ấy, lớn bé già trẻ, từ đó về sau, hàng trăm nghìn năm, xa lìa đường ác; trong mười ngày trai, mỗi ngày tụng đọc một biến Kinh này, thì hiện đời này, nhà ấy không mắc những bệnh đột xuất, cơm ăn, áo mặc, đều được dư thừa. Này nữa Phổ Quảng! Vì thế biết rằng: Địa Tạng Bồ tát có sức uy thần vô cùng lớn lao, trăm nghìn vạn ức những sự lợi ích khó nói hết ra. Chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề có nhân duyên lớn với Ngài Địa Tạng, cho nên khi nghe thấy danh Bồ Tát, thấy tượng Bồ tát cho đến chỉ nghe dù là ba chữ năm chữ Kinh này hoặc một bài kệ hay một câu văn thì chúng sinh đó ngay đời hiện tại được vui lạ thường, trăm nghìn vạn kiếp về đời vị lai được đẹp thân hình, lại được thác sinh vào nhà tôn quý. O

13 - Khi bấy giờ Ngài Phổ Quảng Bồ Tát! Nghe Đức Như Lai khen Ngài Địa Tạng nghe xong Bồ Tát liền quỳ chắp tay bạch Đức Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Con vẫn biết rằng bậc Đại sĩ ấy có sức uy thần khôn xiết nghĩ bàn và sức thệ lớn, nguyện đã từ lâu. Nay con vì muốn chúng sinh đời sau khiến cho được biết những sự lợi ích, cho nên con mới hỏi Đức Như Lai. Vâng! Con đã nghe, nay xin lĩnh thụ. Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên là Kinh gì xin bảo cho con về cách lưu hành truyền bá thế nào?”

Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ tát! “Kinh này cả thảy có ba danh hiệu. Một gọi là “Kinh Địa Tạng Bản nguyện”. Hai gọi là “Kinh Địa Tạng Bản Hạnh”. Ba gọi là “Kinh Địa Tạng Bản Thệ Lực”. Nguyên vì Địa Tạng từ bao đời kiếp xa xưa tới nay phát nguyện rộng lớn làm lợi chúng sinh, cho nên các ông phải theo nguyện mà lưu hành truyền bá”.

Bồ Tát Phổ Quảng nghe rồi tin nhận, chắp tay cung kính lễ Phật mà lui. (1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ BẢY: LỢI ÍCH CẢ KẺ CÒN NGƯỜI MẤT

1 - Khi bấy giờ Đại Bồ Tát Địa Tạng bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh cõi Diêm Phù Đề cất nhắc tay chân, động tâm suy, nghĩ đều sinh tội cả. Nếu gặp điều lợi, phần nhiều thoái mất tâm tốt ban đầu; hoặc gặp ác duyên, thì càng thêm ác, những hạng người ấy như đội đá nặng, đi trên bùn lầy, đã nặng càng nặng, chân lún xuống sâu, ngập chìm khốn đốn. Nếu những kẻ đó, gặp thiện tri thức, đội bớt đá cho, hoặc đội cả cho, mà người tri thức lại có sức khoẻ, dìu đỡ kẻ đó bước được vững vàng tới chỗ bằng phẳng, thời phải nên nghĩ đến đường xấukia mà đừng trở lại đường hiểm ấy nữa.

Bạch Đức Thế Tôn! Những chúng sinh ấy quen theo thói ác, từ việc nhỏ ít cho đến số nhiều không lường đếm được, những chúng sinh ấy đã nhiễm thói ác thì khi lâm chung, họ hàng nam nữ, nên vì người ấy, tu tạo phúc lành, để giúp đỡ thêm tiền đồ cho họ. Như treo các thứ tràng phan, bảo cái, đốt đèn thắp hương, chuyển đọc Kinh này, cúng dàng tượng Phật, và niệm Phật hiệu, niệm danh Bồ Tát, danh Bích Chi Phật, làm cho mỗi câu, mỗi một danh hiệu, lọt vào lỗ tai người sắp mệnh chung, khi ấy thần thức còn nghe biết được. Cứ theo nghiệp ác của các chúng sinh đã gây tạo ra, xét về quả báo đáng lẽ người đó phải đọa đường ác, xong nhờ họ hàng, đã vì người đó, làm nhân Thánh Đạo, cho nên hết thảy các tội báo kia, đều được tiêu diệt.

Nếu vì kẻ kia, sau khi đã chết trong bốn chín ngày làm nhiều việc thiện, thì có thể khiến cho chúng sinh ấy thoát hẳn đường ác, được sinh cõi Trời, hoặc trong cõi người, hưởng thụ những sự cực kỳ vui thú, mà cả họ hàng hiện tại cũng được lợi ích vô cùng. Vì thế con nay, đối trước Đức Phật cùng với Trời, Rồng và tám bộ chúng, nhân và phi nhân khuyên các chúng sinh cõi Diêm Phù Đề, khi có người mất, phải nên cẩn thận chớ có sát sinh, chớ gây nghiệp ác, cũng đừng bày biện tế lễ Quỷ, Thần, kêu cầu ma quái. Lý do vì sao? Vì việc giết hại cho đến tế lễ, không được phúc báo chẳng lợi ích gì cho người chết cả, mà chỉ có kết duyên tội nặng thêm cho người chết đó. Giả thử đời nay hay là đời sau, vong nhân ấy được dự phẩm quả Thánh, đáng được sinh vào cõi Nhân, cõi Thiên, mà chỉ tại vì trong lúc lâm chung, bị người họ hàng gây những nhân ác, cũng có thể làm cho vong nhân ấy bị mắc vạ lây phải đi đối chứng, chậm sinh cảnh lành. Huống kẻ chết kia, khi sống ở đời, chưa từng làm được một chút thiện căn, cho nên bản nghiệp cứ thế dắt đi, đọa vào đường ác. Vậy họ hàng nào lại nỡ làm cho tội nghiệp người ấy phải gánh nặng thêm. Ví như có người từ nơi xa đến đói ăn ba ngày, mà đồ mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp người quen, lại nhờ mang hộ ít đồ vật nữa, vì thế lại nặng càng khốn khổ thêm.

Bạch Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh cõi Diêm Phù Đề, trong Pháp Phật dạy, nếu có thể làm mọi việc thiện nhỏ chỉ bằng sợi lông, giọt nước, hạt cát, hay bằng mảy bụi, như thế hết thảy đều được lợi ích.

2 - Khi Ngài Địa Tạng bạch lời đó xong, trong Pháp Hội có một vị Trưởng Giả tên là Đại biện! Ông Trưởng Giả này từ lâu đã chứng được quả vô sinh, vì chưng ông muốn hóa độ Thập phương nên mới hiện ra làm thân Trưởng Giả, chắp tay cung kính hỏi Ngài Địa Tạng: “Xin thưa Đại sĩ! Trong cõi Diêm Phù có chúng sinh nào sau khi mất rồi, mà trong họ hàng có người lớn nhỏ, biết vì người mất đó làm việc công đức cho đến làm chay, làm các nhân lành, thời người mất đó, có được lợi ích và giải thoát không?”

3 - Ngài Địa Tạng đáp: “Nay tôi nhờ sức uy thần của Phật, xin vì chúng sinh đời nay đời sau mà nói việc đó. Này ông Trưởng Giả tất cả chúng sinh hiện tại vị lai lúc sắp mệnh chung, mà được nghe một danh hiệu Đức Phật, danh hiệu Bồ Tát hay một danh hiệu của Bích Chi Phật, thời không kể gì, có tội hay không, đều được giải thoát.

Nếu có nam giới hay nữ giới nào, trong lúc còn sống, không tạo phúc lành, lại gây nhiều tội, sau khi mất đi họ hàng lớn nhỏ, biết vì người ấy làm việc phúc lợi và các việc Phật, thì trong bảy phần số lượng công đức người chết chỉ được hưởng có một phần, còn lại sáu phần người làm được hưởng. Vì thế cho nên, thiện nam, thiện nữ đời này, đời sau nghe lời nói đó, nên gắng công tu thì sẽ được hưởng trọn phần công đức.

Quỷ dữ vô thường, đột nhiên nó đến, thần hồn mờ mịt, chưa rõ tội phúc, trong bốn chín ngày, như ngây như điếc, hoặc phải đến tòa, biện luận nghiệp quả, khi thẩm định xong, thời phải theo nghiệp, mà đi thụ sinh. Trong khi chưa biết sự thể ra sao, cũng đã phải chịu muôn nghìn sầu khổ, huống là bị đọa vào các đường ác. Vong nhân mất đó khi chưa thụ sinh, trong bốn chín ngày, lòng hằng mong mỏi, họ hàng cốt nhục làm các việc phúc, để cứu giúp cho; qua bốn chín rồi, thời cứ theo nghiệp, mà đi thụ báo.

Nếu người mất đó, thuộc hạng tội thường, còn bị đọa hàng trăm nghìn năm, không ngày giải thoát; nếu như kẻ phạm năm tội Vô Gián, đọa đại địa ngục, thì muôn nghìn kiếp, chịu mãi khổ đau.

Lại nữa Trưởng Giả! Chúng sinh gây phạm tội nghiệp như thế, sau khi mất rồi, họ hàng cốt nhục trong lúc làm chay cầu thêm phúc lành cho người chết ấy, thì lúc chưa làm, hay lúc đang làm, nước gạo và rau, các thứ không được đổ vãi xuống đất, cho đến thực phẩm chưa hiến cúng Phật và Thánh Hiền Tăng, thì không được ăn, trước khi dâng cúng; nếu ăn trái phép và làm không sạch, thì người chết kia chẳng được lợi lạc. Nếu cúng Phật, Tăng, những thứ tinh sạch, thì trong bảy phần số công đức đó, người chết cũng có hưởng được một phần.

Này ông Trường Giả! Vì thế cho nên chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề; nếu vì cha mẹ, hay kẻ họ hàng sau khi chết rồi, mà muốn làm chay, dốc lòng cúng dàng được như vậy thì kẻ còn người mất đều được lợi ích”.

Khi Ngài Địa Tạng nói lời này xong, cung Trời Đao Lợi có hàng nghìn vạn ức na do tha Quỷ, Thần trong cõi Nam Diêm Phù Đề hết thảy phát tâm Bồ Đề Vô Thượng.

Còn ông Trưởng Giả Đại biện hoan hỷ, vâng lời dạy bảo, làm lễ mà lui. (1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ TÁM: CÁC VUA DIÊM LA
TÁN THÁN CÔNG ĐỨC

1 - Lúc bấy giờ, trong núi Thiết Vi, có Vô lượng Quỷ Vương, các vua Diêm La, kết tập cùng lên cung Trời Đao Lợi, đến chỗ Đức Phật. Các Quỷ Vương đó tên hiệu gọi là:

Quỷ Vương Ác độc,

Quỷ Vương Đa ác,

Quỷ Vương Đại tránh,

Quỷ Vương Bạch hổ,

Quỷ Vương Huyết hổ,

Quỷ Vương Xích hổ,

Quỷ Vương Gieo tai họa,

Quỷ Vương Phi thân,

Quỷ Vương Điện quang,

Quỷ Vương Nanh sói,

Quỷ Vương Ngàn mắt,

Quỷ Vương Ăn thú vật,

Quỷ Vương Vác đá,

Quỷ Vương Chủ hao tổn,

Quỷ Vương Chủ tai họa,

Quỷ Vương Chủ phúc,

Quỷ Vương Chủ thực phẩm,

Quỷ Vương Chủ tài sản,

Quỷ Vương Chủ gia súc,

Quỷ Vương Chủ loài chim,

Quỷ Vương Chủ loài thú,

Quỷ Vương Chủ yêu mỵ,

Quỷ Vương Chủ sản dục,

Quỷ Vương Chủ sinh mệnh,

Quỷ Vương Chủ tật bệnh,

Quỷ Vương Chủ hiểm nguy,

Quỷ Vương Ba mắt,

Quỷ Vương Bốn mắt,

Quỷ Vương Năm mắt,

Quỷ Vương Kỷ Lợi Thất,

Quỷ Vương Đại Kỷ Lợi Thất,

Quỷ Vương Kỷ Lợi Xoa,

Quỷ Vương Đại Kỷ Lợi Xoa,

Quỷ Vương A Na Tra,

Quỷ Vương Đại A Na Tra.

Các đại Quỷ Vương như thế đều cùng hết thảy trăm nghìn tiểu Quỷ Vương khác, ở khắp trong cõi Nam Diêm Phù Đề đều có chức trách, đều có trụ sở, những Quỷ Vương cùng các vua Diêm La nhờ uy thần Phật và sức của Ngài Địa Tạng Bồ tát cùng lên được tới cung Trời Đao Lợi, đứng qua một phía.

2 - Khi bấy giờ vua Diêm La quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Lạy Đức Thế Tôn! Nay chúng con cùng các vị Quỷ Vương, đều được nương nhờ uy thần của Phật và Ngài Địa Tạng, lại nhờ đã gây được chút duyên lành, nên mới được đến cung Trời Đao Lợi, dự Đại hội này. Nay chúng con có chút việc nghi ngờ, muốn được bạch hỏi, cúi xin Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con biết”.

Đức Phật bảo với vua Diêm La rằng: “Ông cứ việc hỏi; Ta sẽ vì ông mà dạy rõ cho”.

Lúc bấy giờ vua Diêm La chiêm lễ Đức Thế Tôn xong, ngoảnh lại ngưỡng trông Địa Tạng Bồ tát, rồi bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn! Con đã nhận thấy Địa Tạng Bồ tát dùng nhiều phương tiện, cứu khổ chúng sinh khắp trong sáu đường, mà không mỏi mệt.

Bậc Đại Bồ Tát, có sức thần thông cứu khổ khôn xiết nghĩ bàn như thế, nhưng sao chúng sinh vừa thoát khỏi tội chẳng được bao lâu lại phải bị đọa vào trong đường ác.

Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ tát đã có sức thần khôn xiết như thế, tại sao chúng sinh chẳng chịu nương theo đường thiện để được vĩnh viễn giải thoát xin Đức Thế Tôn giảng cho con rõ”.

3 - Đức Phật lại bảo vua Diêm La rằng: “Chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề căn tính ương ngạnh, thật khó dạy dỗ, thật khó uốn nắn. Vị Bồ tát đây, trải trăm nghìn kiếp, đã từng cứu bạt những chúng sinh ấy cho sớm giải thoát”. Những kẻ tội báo, dù cho bị đọa vào đường ác lớn, Địa Tạng Bồ tát cũng dùng đủ sức phương tiện, nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, khiến cho nhớ rõ được việc đời trước. Tại vì chúng sinh ở cõi Phù Đề kết tập ác nặng, cho nên đường ác hết ra lại vào, khiến cho Bồ Tát khó nhọc hết kiếp làm việc cứu độ.

Ví như có người quên mất nhà mình lạc vào đường hiểm, trong đường hiểm ấy có nhiều Dạ Xoa, hổ sói, sư tử, trăn, rết, rắn độc. Người quên nhà ấy đang đi đường hiểm, chỉ giây phút nữa là sẽ bị hại, may có một vị tri thức hiểu biết, nhiều phép thuật lạ, có thể ngăn cản những quỷ Dạ Xoa, các loài độc hại. Tri thức chợt gặp người quên nhà kia đang vào đường hiểm, bèn vội bảo rằng: “Ô hay! Ông kia! Vì lý do gì mà vào đường này, liệu có phép lạ ngăn được các loài độc hại ấy không?”. Người lạc đường đó, bỗng nghe nói thế, mới biết đường hiểm, vội lui trở lại, cầu ra khỏi đường, vị thiện tri thức, nắm tay dắt dìu, dẫn người lạc đó, ra ngoài đường hiểm, khỏi sự độc hại, đến con đường lành, giúp cho yên ổn, rồi mới bảo rằng: “Ông thấy sợ chưa? Từ nay trở đi, chớ có bước chân vào đường này nữa, nếu đã bước vào, khó mà ra được, lại còn tổn hại cả tính mạng kia”. Người lạc đường ấy sinh lòng cảm phục, khi sắp chia tay, tri thức lại dặn: “Nếu ông có gặp những ai quen biết, cùng người đi đường, dù nam hay nữ, cũng nên mách bảo cho họ biết rằng, con đường đó có nhiều sự độc ác, hại đến thân mệnh, chớ để cho họ tự vào chỗ chết”.

Vì thế nên Ngài Địa Tạng Bồ Tát đủ đức Từ Bi cứu vớt chúng sinh mắc tội khổ não, muốn cho chúng được sinh cõi Trời, người, hưởng sự vui sướng. Những kẻ tội đó, biết rõ sự khổ trong đường ác nghiệp, khi được thoát ra không bao giờ còn dám quay vào nữa. Như người quên nhà bị lạc đường kia, gặp thiện tri thức, dắt cho ra khỏi, không bao giờ còn bị lạc vào nữa, gặp thấy người khác, lại bảo người ta, chớ vào đường ấy. Tự nói rằng mình mê nên lạc đường, nay được thoát rồi, chẳng còn lạc nữa, nếu còn lạc vào, tất là còn mê, không biết đó là con đường hiểm nạn, mà mình đã từng sa lạc vào rồi, suýt thời mất mạng. Cũng như chúng sinh, bị đọa đường ác, Địa Tạng Bồ Tát, dùng sức phương tiện, khiến được thoát ra, mà được sinh lên cõi Trời, cõi người, rồi lại tái đọa. Nếu nghiệp kết nặng, mãi đọa địa ngục không có ngày ra.

4 - Khi bấy giờ có Ác Độc Quỷ Vương, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Quỷ Vương chúng con, số đông vô lượng, ở cõi Diêm Phù, hoặc có vị làm lợi ích cho người, hoặc có vị làm tổn hại cho người, mỗi vị một khác, đều không giống nhau, lại vì nghiệp báo, khiến quyến thuộc con, dạo các thế giới, lành ít dữ nhiều, khi đi qua nhà, buồng, phòng người ta, hoặc là thành ấp, xóm làng, trại, vườn, nếu thấy có người nam hay nữ nào, dầu chỉ làm được một việc thiện nhỏ, như treo một lá phan, một bảo cái, ít hương, ít hoa, cúng dàng tượng Phật và tượng Bồ tát, hoặc chuyển đọc Kinh, một câu văn này, hay một bài kệ, đốt hương cúng dàng, thì hàng Quỷ Vương chúng con kính lễ người đó cũng như kính lễ chư Phật đời xưa, đời nay và đời sau vậy. Chúng con truyền cho các hàng tiểu quỷ có uy lực lớn và các Thổ Địa, có phần trách nhiệm hộ vệ ở đó, giữ gìn không để cho các việc dữ, tai nạn đột xuất, bệnh tật hiểm nghèo, cho đến những việc chẳng được như ý, xảy ra ở gần những khu nhà ấy, huống là còn vào đến cửa được ư”.

Đức Phật khen ngợi bảo Quỷ Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Các ông cùng với các vua Diêm La hãy hộ vệ cho những người nam giới, nữ giới như thế! Ta cũng truyền cho các vị Vua Trời Phạm Vương, Đế Thích hộ vệ các ông”.

5 - Khi Đức Phật nói những lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Quỷ Vương tên là Chủ Mệnh bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay cái nghiệp duyên căn bản của con chuyên chủ coi về tuổi thọ của người cõi Diêm Phù Đề, khi sinh, khi tử, con đều chủ trương, cứ như bản nguyện của con thực có lợi ích rất lớn, chỉ vì chúng sinh không hiểu ý con, đến khi sinh tử cầu chẳng được yên, tại làm sao vậy?

6 - Vì rằng những người cõi Diêm Phù Đề trước khi sinh nở, chẳng kể vợ chồng nên làm việc thiện, để thêm phúc đức lợi ích trong nhà, khiến thần Thổ Địa vô cùng mừng rỡ thưởng ủng hộ cho cả hai mẹ con đều được yên ổn, họ hàng cũng được thêm phần lợi ích, hoặc sau khi sinh nên phải cẩn thận đừng giết hại vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho sản phụ ăn, và cũng chớ nên hội tụ họ hàng, ăn uống rượu thịt, ca nhạc, đàn hát, khiến cho mẹ con không được yên vui. Vì sao như thế? Vì lúc sinh nở nguy hiểm khó khăn, có nhiều ác quỷ, Tinh, Mỵ, Vọng, Lượng, muốn ăn tinh huyết, thì con sớm sai Thần Linh Thổ Địa giúp cho mẹ con người ấy yên lành và được lợi ích. Gia đình người ấy, thấy mình được hưởng những sự yên ổn vui vẻ như thế, đáng lẽ phải nên làm điều phúc lành, đền ơn Thổ Địa. Trái lại họ ham giết hại súc vật, thiết đãi họ hàng, bởi những lẽ ấy, mình tự gây vạ, phải chịu lấy vạ, mẹ con tổn hại, lắm sự oan gia.

7 - Lại người trong cõi Nam Diêm Phù Đề đến lúc mệnh chung, bất luận người lành hay là kẻ dữ, con đều không muốn cho họ bị đọa vào các đường ác, huống chi người nào trong lúc sinh thời biết tu tạo phúc, lại được tăng sức hộ vệ của con.

Cõi Diêm Phù Đề những người làm thiện đến lúc mệnh chung, mà cũng còn có trăm nghìn quỷ thần ở các ngả ác, hoặc biến hiện ra hình tướng mẹ cha hay người quyến thuộc, lừa gạt dẫn dắt hồn người chết kia khiến vào đường ác, huống chi những kẻ trong lúc sinh thời đã gây tội ác.

Bạch Đức Thế Tôn! Những kẻ nam giới hay là nữ giới cõi Diêm Phù Đề đến khi sắp chết, thần thức hôn mê, không phân biệt được điều lành điều dữ, cho đến tai mắt, không còn thấy, nghe, thì hàng thân quyến, phải nên lập đàn mà cúng dàng lớn, chuyên tụng tôn Kinh, niệm danh hiệu Phật và hiệu Bồ Tát, tu tạo thiện duyên phúc lành như thế, có thể khiến cho vong giả giải thoát khỏi những đường ác, các thần ma quỷ đều phải tránh xa.

Lạy Đức Thế Tôn! Hết thảy chúng sinh khi sắp mệnh chung, nếu như được nghe chỉ một danh hiệu một vị Phật nào, một Bồ Tát nào, hoặc một câu văn hay một bài Kệ, Kinh điển Đại Thừa, con xem thấy những hạng người như thế, trừ hạng bị phạm năm tội Vô Gián, còn hạng tội nhỏ đáng lẽ bị đọa liền được giải thoát”.

8 - Đức Phật bảo Chủ Mệnh Quỷ Vương rằng: “Vì ông có lòng đại từ đại bi nên đã rộng phát thiện nguyện như thế, để cứu chúng sinh trong khi sinh tử. Về đời sau này, nếu có người nam hay người nữ nào đến lúc sinh tử, thì ông đừng nhãng quên bản nguyện ấy, khiến cho hết thảy đều được giải thoát, mãi mãi yên vui”.

Chủ Mệnh Quỷ Vương bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Xin đừng bận tâm, trọn đời của con luôn luôn cứu hộ chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, khi sinh khi tử, đều được an vui.

Con xin nguyện rằng: Các chúng sinh kia, khi sinh khi tử, tin theo lời con, thì không một ai mà không giải thoát, được lợi ích lớn”.

9 - Bấy giờ Đức Phật Bảo Ngài Địa Tạng Đại Bồ Tát rằng: “Ông Đại Quỷ Vương chủ thọ mệnh đây, đã từng trải qua hàng trăm nghìn kiếp làm Đại Quỷ Vương, cứu hộ chúng sinh trong lúc sinh tử; bậc Đại sĩ ấy, vì lòng từ bi, phát nguyện làm thân Đại Quỷ Vương, chứ thật đúng ra không phải quỷ đâu, sau đây, qua một trăm bảy mươi kiếp, ông đó sẽ được thành Phật, hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp hiệu An Lạc, nước gọi Tịnh Trụ, tuổi thọ của Ngài không thể tính kiếp”.

Này Địa Tạng ơi! Công việc của ông Đại Quỷ Vương này không thể nghĩ bàn, cõi Trời, cõi người, được vị ấy độ, cũng nhiều vô kể. (1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ CHÍN: XƯNG DANH HIỆU
CHƯ PHẬT

Khi bấy giờ Ngài Địa Tạng Bồ tát bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay con xin vì chúng sinh đời sau, mà nói rõ ràng các sự lợi ích khiến cho bọn họ trong vòng sinh tử được lợi ích lớn. Xin Đức Thế Tôn cho phép con nói”.

Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát: “Nay ông muốn khởi tâm từ cứu vớt hết thảy chúng sinh trong sáu đường khổ, mà nói những sự chẳng thể nghĩ bàn, nay chính là lúc ông nên nói đi. Nếu ông sớm làm xong bản nguyện đó, dù ngay bây giờ, tôi nhập Niết Bàn cũng không còn phải lo đến chúng sinh, đời này, đời sau”.

Địa Tạng Bồ tát bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vô lượng số kiếp về thuở xa xưa có Phật ra đời danh hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, lòng tạm cung kính, liền được siêu thoát tội nặng sinh tử trong bốn mươi kiếp, huống chi lại còn vẽ đắp hình tượng tán thán cúng dàng, thì người ấy được vô biên phúc đức.

Lại Hằng hà sa về kiếp xa xưa, cũng có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Thắng Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, chỉ trong giây lát phát tâm quy y, thì người ấy tu đến ngôi Vô Thượng, chẳng bao giờ còn bị lui chuyển nữa.

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Ba Đẩu Ma Thắng Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, thoát qua lỗ tai, người này sẽ được nghìn lần sinh lên cõi Trời Lục Dục, huống lại dốc lòng xưng niệm danh hiệu!

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, phát tâm quy y, chỉ trong một niệm, thì người ấy được vô lượng chư Phật xoa đầu thụ ký!

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Câu Lưu Tôn Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, dốc lòng chiêm lễ hoặc lại tán thán, thì nơi Pháp Hội trong đời Hiền Kiếp của nghìn Đức Phật, người ấy sẽ được làm Đại Phạm Vương và được thụ ký vào ngôi Vô Thượng.

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây chẳng còn sa đọa vào đường ác nữa, thường được sinh ở cõi Trời, cõi người hưởng sự cực vui.

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời tính danh hiệu là Đa Bảo Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, nhất định chẳng còn đọa vào đường ác, thường ở cõi Trời hưởng thụ những sự vui vẻ vô cùng.

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời tính danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, sinh lòng cung kính, thì chẳng bao lâu người ấy được chứng quả A La Hán.

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Ca Sa Chàng Như Lai. Nếu có người nam hay người nữ nào nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, thì người này sẽ thoát tội sinh tử một trăm đại kiếp.

Lại đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Đại Thông Sơn Vương Như Lai. Nếu có người nam, hay người nữ nào, nghe thấy danh hiệu của Đức Phật đây, người này được gặp hà sa chư Phật nói pháp rộng cho nghe, rồi tất được thành Đạo Bồ Đề.

Lại đời xưa có Đức Tịnh Nguyệt Phật, Đức Sơn Vương Phật, Đức Trí Thắng Phật, Đức Tịnh Danh Vương Phật, Đức Trí Thành Tựu Phật, Đức Vô Thượng Phật, Đức Diệu Thanh Phật, Đức Mãn Nuyệt Phật.

Còn có chư Phật Thế Tôn như thế không thể kể xiết, tất cả chúng sinh đời này, đời sau, hoặc ở cõi Trời, hoặc ở cõi người, hoặc nam, hoặc nữ chỉ niệm danh hiệu của một Đức Phật, đã được vô lượng vô biên công đức, huống chi là niệm nhiều danh hiệu Phật, thì chúng sinh đó, lúc sinh lúc tử được lợi ích lớn, không còn bị đọa vào đường ác nữa.

Nếu có người nào khi sắp mệnh chung tất cả họ hàng, hay chỉ một người, vì người ốm đó, cất cao tiếng niệm, một danh hiệu Phật, khi người ốm chết, trừ tội Vô Gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả, tội Vô Gián kia tuy rất nặng nề, trải qua ức kiếp không thể siêu thoát, nhưng lúc lâm chung, người ta vì mình niệm danh hiệu Phật, thì những tội nặng cũng dần tiêu diệt, huống chi chúng sinh tự mình xưng niệm danh hiệu chư Phật, thì được vô lượng vô biên phúc báo, diệt vô lượng tội”. (1 vái) OOO

(KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN, HẾT QUYỂN TRUNG)

Kinh Địa Tạng bản hạnh

Sức thệ nguyện rộng sâu

Chúng sinh độ hết thảy

Gậy Tích, ngọc Minh Châu

Rộng toang cửa địa ngục

Soi sáng cõi u sầu

Dốc lòng thành tinh tiến

Khỏi đọa chốn khổ đau.

Nam mô Thường trụ Thập phương Pháp. (3 lần) 1 vái OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI: SO SÁNH NHÂN DUYÊN CÔNG ĐỨC BỐ THÍ

Khi bấy giờ Ngài Địa Tạng Bồ Tát nương uy Đức Phật, từ nơi tòa ngồi, đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh trong vòng nghiệp Đạo công đức bố thí nhiều ít khác nhau, có người được hưởng phúc trong một đời, có người mười đời, có người trăm đời, có người nghìn đời, lại có người hưởng phúc lợi rất lớn. Những sự việc ấy là bởi tại sao? Xin Đức Thế Tôn chỉ cho con biết.”

Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng: “Nay Ta nhân ở cung Trời Đao Lợi trong chúng hội này, mà thuyết giảng về sự việc so sánh công đức nhiều ít của việc bố thí cõi Diêm Phù Đề. Ông nên lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói rõ cho.”

Địa Tạng Bồ Tát bạch Đức Phật rằng: “Con có nghi ngờ về sự việc ấy, con muốn được nghe.”

Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát: “Trong cõi Diêm Phù có các quốc vương, các hàng tề phụ, các quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, dòng đại Sát Lợi, đại Bà La Môn, nếu gặp những kẻ bần cùng hèn mạt, cho đến những hạng tàn tật, câm ngọng, ngây điếc, đui mù, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế; những lúc các Vua trong nước lớn ấy, muốn làm bố thí mà đầy đủ lòng từ bi hỷ xả, tự tay bố thí cho những kẻ đó; hoặc sai người khác đem của bố thí, lại dùng lời nói nhẹ nhàng an ủi. Những bậc quốc vương các nước lớn ấy được hưởng phúc lợi, công đức bố thí ngang với công đức cúng dàng trăm nghìn hà sa chư Phật. Bởi vì sao thế? Bởi các vua ấy thường vì những kẻ nghèo hèn tàn tật, mà đã phát tâm đại từ đại bi cho nên phúc báo được hưởng thế này: Trong trăm nghìn kiếp thường được đầy đủ bảy thứ quý báu huống chi những thứ ăn mặc thường dùng.

Lại thế này nữa Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, như có các vị quốc vương cho đến hàng Bà La Môn gặp hình tượng Phật, chùa, tháp thờ Phật, cho đến hình tượng Bồ Tát, Thanh Văn hay Bích Chi Phật, tự mình sửa sang cúng dàng bố thí. Các vị vua ấy sẽ được ba đời làm Trời Đế Thích hưởng niềm vui sướng. Nếu có thể đem phúc lành bố thí hồi hướng chúng sinh trong khắp Pháp giới, thì quốc vương đó trong mười số kiếp thường làm vua Trời Đại Phạm Thiên Vương.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Nếu đời sau này có các quốc vương cho đến các hàng dòng Bà La Môn, gặp các chùa, tháp của Phật thuở trước, hoặc là Kinh điển cho đến hình tượng bị hoại, rách nát mà hay phát tâm xin tu bổ lại, các vị vua ấy tự mình sửa sang hoặc khuyên người khác, kể trăm nghìn người kết duyên bố thí. Các vị vua ấy trong trăm nghìn đời làm vua Chuyển Luân, còn các người khác bố thí như thế thì trăm nghìn đời thường được làm vua ở các nước nhỏ. Nếu lại đến trước các chùa, tháp Phật mà tự phát tâm hồi hướng công đức, thì các vị ấy đều thành Phật Đạo được hưởng quả phúc Vô lượng vô biên.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này có các quốc vương cho đến các hàng dòng Bà La Môn, thấy người già yếu, phụ nữ sinh nở, trong khoảng giây phút đủ lòng từ bi, bố thí thuốc thang, cơm nước, giường, chiếu, quần áo, chỗ nằm khiến cho họ được vui vẻ yên ổn, như thế thì được phúc đức vô cùng, trong một trăm kiếp thường được làm vua cõi Trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường được làm vua cõi Trời Lục Dục và rồi thành Phật không bao giờ còn đọa vào đường ác, đến trăm nghìn kiếp lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này có các quốc vương cho đến các hàng dòng Bà La Môn, hay làm những việc bố thí như thế được phúc vô cùng, lại hay hồi hướng chẳng kể ít nhiều tất được thành Phật. Huống chi được những quả báo làm vua Đế Thích, Phạm Thiên hay vua Chuyển Luân. Vì thế Địa Tạng, cần khuyên tất cả chúng sinh đều nên tu hành như thế.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, ở trong Phật pháp mà gieo trồng được một chút nhân lành, chỉ bằng sợi tóc, hạt cát, mảy bụi, thì được phúc lợi không thể ví dụ.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, gặp hình tượng Phật hình tượng Bồ Tát hay Bích Chi Phật hoặc vua Chuyển Luân mà lại bố thí phát tâm cúng dàng thì được vô lượng vô biên phúc lành thường được sinh ở cõi người cõi Trời, hưởng niềm cực vui. Nếu đem hồi hướng cho cả Pháp giới, thì người ấy được phúc lợi vô cùng.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, mà khi gặp được Kinh điển Đại Thừa, được nghe câu Kinh hay một bài Kệ, mà rồi đem lòng ân cần trân trọng tán thán cung kính, bố thí, cúng dàng thì người ấy được phúc báo vô cùng. Nếu đem hồi hướng cho cả Pháp giới, thì được phúc lợi không thể nào bàn.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, gặp chùa, tháp Phật, Kinh điển Đại Thừa, những gì mời làm, mà biết bố thí, cúng dàng tán thán, chắp tay chiêm lễ. Nếu gặp chùa tháp, Kinh điển đã cũ hoặc bị hủy hoại, mà tu bổ lại. Một mình phát tâm, hoặc khuyên nhiều người cùng phát tâm làm, những người phát tâm làm theo như vậy, trong ba mươi kiếp thường được làm vua ở các nước nhỏ, còn người Đàn Việt chính thức thường được làm vua Chuyển Luân, lại đem thiện Pháp mà giáo hóa cho các vua nước nhỏ.

Lại thế này nữa, Địa Tạng Bồ Tát! Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp, làm những điều thiện như là bố thí, hoặc giả cúng dàng sửa sang chùa, tháp tu bổ Kinh điển, cho đến làm được những việc nhỏ như sợi tóc, mảy bụi, giọt nước, hạt cát những việc thiện đó mà đem hồi hướng cho khắp Pháp giới thì những công đức của người làm đó hàng trăm nghìn đời được hưởng những sự vui vẻ vô cùng. Nếu chỉ hồi hướng cho người nhà mình, hoặc tự mình hưởng những lợi ích đó, thì sẽ ba đời được hưởng quả vui, nếu làm một phần thì hưởng vạn phần.

Này ông Địa Tạng! Tạo tác nhân duyên công đức bố thí là như thế đấy.

(1 vái) OOO


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT: NÓI VỀ ĐỊA THẦN
HỘ PHÁP

Khi bấy giờ ông Kiên Lao Địa Thần bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Từ xưa tới nay, con đã chiêm ngưỡng đỉnh lễ vô lượng bậc Đại Bồ Tát đều là những vị trí tuệ thần thông, lớn không nghĩ bàn độ khắp chúng sinh, như Ngài Địa Tạng Đại Bồ Tát đây, so với các vị hàng Bồ Tát khác, thì bản thệ nguyện rất là sâu rộng.

Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ Tát có nhân duyên lớn với cõi Diêm Phù, như Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm hay Ngài Di Lặc cùng hóa hiện ra trăm nghìn thân hình để độ chúng sinh khắp trong sáu ngả; nhưng chỗ phát nguyện của các vị ấy khả dĩ làm xong. Thế mà thệ nguyện của Ngài Địa Tạng giáo hóa chúng sinh khắp trong sáu đường, trải đến số kiếp kể nhiều như cát vạn ức sông Hằng.

Bạch Đức Thế Tôn! Con xem chúng sinh đời này, đời sau, nên lựa chọn lấy chỗ đất sạch sẽ ở về phía nam khu đất mình ở, rồi dùng các thứ đất, đá, tre, gỗ làm thất thờ cúng, ở trong tô vẽ hình hoặc tạc tượng Địa Tạng Bồ Tát bằng vàng, bạc, đồng hay là bằng sắt, mà thắp hương lễ, tán thán, cúng dàng, thì người ấy được mười điều lợi ích ngay nơi mình ở.

Những gì là mười?

Một là đất cát mậu mỡ tốt lành.

Hai là nhà cửa bình yên mãi mãi.

Ba là kẻ mất được sinh cõi Trời.

Bốn là người còn hưởng thêm tuổi thọ.

Năm là cầu gì cũng được như ý.

Sáu là không mắc tai nạn nước lửa.

Bảy là trừ sạch các việc hao tổn.

Tám là dứt hẳn những cơn ác mộng.

Chín là ra vào có Thần hộ vệ.

Mười là thường được gặp bậc Thánh nhân.

Bạch Đức Thế Tôn! Chúng sinh đời này và cả đời sau, nếu cứ theo đúng cách thức như thế mà cúng dàng Ngài Địa Tạng Bồ Tát ở nơi phần đất mà mình cư trú, thì được mọi sự lợi ích như vậy.”

Vị Địa Thần lại bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Về đời sau này nếu có thiện nam hay thiện nữ nào ở ngay chỗ mình, có Kinh điển này và tượng Bồ Tát mà người ấy lại chuyên tụng cúng dàng Địa Tạng Bồ Tát, thì con ngày đêm thường lấy sức thần hộ vệ người ấy, khỏi mắc tai họa nước, lửa, giặc, cướp, nạn lớn, nạn nhỏ, tất cả sự ác, đều tiêu diệt hết.”

Đức Phật bảo ông Kiên Lao Địa Thần: “Sức thần của ông các thần khó sánh. Vì cớ gì thế? Vì đất đai cõi Nam Diêm Phù Đề đều là nhờ ông giữ gìn kể từ cỏ cây, cát đá, núi rừng, tre lau, thóc gạo, châu báu tất cả những thứ từ đất sinh ra cũng đều nhờ sức của ông giúp đỡ, nay ông lại còn tuyên dương những việc lợi ích của Ngài Địa Tạng Bồ Tát, thì phần công đức và sức thần thông của ông gấp bội trăm nghìn lần trước.

Này ông Địa Thần! Nếu về đời sau có người thiện nam hay thiện nữ nào cúng dàng Bồ Tát, chuyên tụng Kinh này, rồi cứ y theo làm lấy một việc mà Kinh Địa Tạng Bản Nguyện đã dạy, thì ông nên dùng sức thần thông mà ủng hộ người đó, đừng để hết thảy những sự tai hại và chẳng vừa ý đưa đến tai họ, huống nữa để cho họ chịu sự ấy. Chẳng những mình ủng hộ người đó, mà còn có cả, Phạm Vương, Đế Thích cùng dòng quyến thuộc và các chư Thiên, dòng họ chư Thiên ủng hộ người ấy. Tại sao lại được các vị Hiền Thánh ủng hộ như thế? Đều do vì những người ấy chiêm lễ Địa Tạng hình tượng và chuyên đọc tụng Kinh Bản Nguyện này, tự nhiên xa lìa được nơi biển khổ chứng vui Niết Bàn, bởi vậy nên được ủng hộ một cách lớn lao như thế.”

(1 vái) ooo


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI HAI: LỢI ÍCH CỦA
SỰ THẤY NGHE

1 - Bấy giờ đỉnh đầu của Đức Thế Tôn phóng ra trăm nghìn muôn ức tia sáng cực lớn như là:

Tia sáng sắc trắng,

Tia sáng sắc trắng lớn,

Tia sáng tốt lành,

Tia sáng tốt lành lớn,

Tia sáng như ngọc,

Tia sáng như ngọc lớn,

Tia sáng sắc tía,

Tia sáng sắc tía lớn,

Tia sáng sắc xanh,

Tia sáng sắc xanh lớn,

Tia sáng sắc biếc,

Tia sáng sắc biếc lớn,

Tia sáng sắc hồng,

Tia sáng sắc hồng lớn,

Tia sáng sắc lục,

Tia sáng sắc lục lớn,

Tia sáng sắc vàng ròng,

Tia sáng sắc vàng ròng lớn,

Tia sáng tướng mây lành,

Tia sáng tướng mây lành lớn,

Tia sáng nghìn vòng tròn,

Tia sáng nghìn vòng tròn lớn,

Tia sáng vòng tròn báu,

Tia sáng vòng tròn báu lớn,

Tia sáng vừng mặt trời,

Tia sáng vừng mặt trời lớn,

Tia sáng vừng mặt trăng,

Tia sáng vừng mặt trăng lớn,

Tia sáng hình cung điện,

Tia sáng hình cung điện lớn,

Tia sáng hình mây biển,

Tia sáng hình mây biển lớn.

Từ trên đỉnh đầu phóng ra những luồng tia sáng như thế rồi lại phát ra những tiếng mầu nhiệm mà bảo đại chúng Thiên - Long Bát Bộ, nhân và phi nhân: “Hôm nay ở đây, cung Trời Đao Lợi, đại chúng hãy nghe Ta đương khen ngợi những sự lợi ích, những sự khó bàn, những sự nhân hạnh siêu phàm nhập Thánh, những sự đã tu chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không còn thoái chuyển nơi Đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác của Ngài Địa Tạng; đã thi hành ở cõi Trời, cõi người.”

2 - Đức Phật lúc đó nói vừa đến đấy, trong Pháp hội có vị Đại Bồ Tát hiệu Quán Thế Âm, từ tòa đứng dậy chắp tay quỳ gối mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ngài Địa Tạng đây, từ bi đức lớn thương xót chúng sinh mắc nhiều tội khổ, mà Ngài hóa ra nghìn vạn ức thân, trong muôn ức cõi, công đức bố thí và sức uy thần không thể nghĩ bàn của Ngài Bồ Tát, con đã được nghe Đức Thế Tôn nói và trong mười phương vô lượng chư Phật cùng lời khen ngợi Địa Tạng Bồ Tát. Vì sao chư Phật đời xưa đời này và cả đời sau, kể những công đức mãi vẫn chưa hết, vừa rồi con được nghe Đức Thế Tôn bảo đại chúng rằng: “Ta muốn tuyên nói các sự lợi ích của Ngài Địa Tạng. Xin Đức Thế Tôn vì khắp chúng sinh đời nay, đời sau, mà nói những sự không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng, khiến cho tám bộ Trời, Rồng chiêm lễ để được phúc lành.”

3 - Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm rằng: “Ông có nhân duyên với cõi Sa Bà thật là rất lớn. Nếu có Trời, Rồng hoặc nam, hoặc nữ, hoặc Thần, hoặc Quỷ, cho đến chúng sinh khổ trong sáu đường được nghe danh hiệu, thấy hình tượng ông, hay mến mộ ông, cùng khen ngợi ông, thì chúng sinh ấy thế nào cũng tu được Đạo Vô Thượng và không thoái chuyển, thường được sinh vào cõi Trời, cõi người, hưởng đủ sự vui, đến khi nhân quả sắp được thuần thành Phật thụ ký cho. Nay ông sẵn lòng từ bi thương xót các loài chúng sinh, Trời, Rồng, tám bộ, mà muốn nghe Ta nói sự lợi ích không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng! Ông nghe cho kỹ, Ta nói cho hay.”

Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vâng! Con muốn nghe.”

4 - Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm rằng: “Trong các thế giới, đời nay, đời sau, có người Trời nào đã hưởng hết phúc, thấy năm tướng suy hiện ra điềm xấu hoặc là có kẻ phải đọa đường ác. Các người Trời đó, hoặc nam, hoặc nữ, đương khi thấy những điềm gở hiện ra, mà được trông thấy hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ Tát, hoặc là nghe thấy danh hiệu Bồ Tát, rồi một lần lễ, một lần chiêm ngưỡng, thì những vị ấy lại được tăng phúc ở cõi Trời, người, hưởng vui vô cùng, chẳng bao giờ đọa ba đường ác nữa, huống chi những người được nghe danh hiệu, được thấy hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, rồi đem hương, hoa, y phục các thứ ăn, uống, châu báu bố thí cúng dàng thì được phúc lợi công đức vô biên.”

5 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm! Trong các thế giới, đời nay, đời sau, chúng sinh sáu đường, đến khi sắp mất được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, dù chỉ một tiếng thoáng qua lỗ tai, thì chúng sinh ấy, mãi không còn phải trải qua sự khổ trong ba đường ác, huống chi là lúc kẻ sắp mất kia, lại được cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem các tài vật, nhà cửa, châu báu, y phục của người sắp bị mất đó, mang mà bán đi để tô, đắp, vẽ hình tượng Địa Tạng. Rồi bảo cho người bệnh nhân chưa chết mắt thấy, tai nghe biết rằng họ hàng đã đem nhà cửa, tài vật châu báu, vì cầu cho mình mà tô, đắp vẽ hình tượng Địa Tạng. Nếu như người ấy, phải bị nghiệp báo chịu bệnh trầm trọng, nhờ công đức này liền được khỏi ngay và tăng tuổi thọ, hoặc giả người ấy nghiệp báo phải chết, lại cả tội chướng nghiệp chướng hợp lại, đáng lẽ phải đọa vào chốn đường ác, xong vì nhờ có công đức kể trên, sau khi chết rồi liền được sinh lên cõi Trời, cõi người, hưởng niềm vui lớn tất cả tội chướng thảy đều tiêu tan.”

6 - Lại thế này nữa Bồ Tát Quán Âm:

Nếu đời sau này có người thiện nam hay thiện nữ nào đương còn bú mớm ba tuổi, năm tuổi, cho đến mười tuổi, sớm mất cha mẹ và anh, chị, em, đến khi lớn lên thương nhớ cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, không biết đọa vào nẻo ác thú nào? Sinh thế giới nào? Sinh cõi Trời nào? Nếu như người ấy tô vẽ hình tượng Địa Tạng Bồ Tát cho đến nghe danh, một lần chiêm ngưỡng, một lần đỉnh lễ, một đến bảy ngày, tâm không thoái chuyển, nghe danh thấy hình chiêm lễ cúng dàng. Thời hàng quyến thuộc đã sớm mất đi của con người đó, nếu vì theo nghiệp đang chịu số kiếp bị đọa đường ác, nay nhờ công đức của các con cái, hay anh, chị, em tô vẽ hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, chiêm lễ cúng dàng, liền được giải thoát và được sinh lên cõi Trời, cõi người, hưởng niềm vui thú. Còn như quyến thuộc của con người ấy, khi chết nhờ phúc đã được sinh lên cõi Trời, cõi người hưởng niềm vui rồi, nhờ công đức này càng thêm nhân lành tu hành bậc Thánh vui vẻ vô cùng. Nếu như người ấy, dốc lòng chiêm lễ hình tượng Địa Tạng hai mươi mốt ngày, niệm danh hiệu Ngài đủ một vạn biến, sẽ được Bồ Tát hiện vô biên thân bảo cho người đó, rõ nơi quyến thuộc sinh ở cõi nào, hoặc trong giấc mộng, được Ngài Địa Tạng hiện sức thần thông dẫn người đó đi khắp các thế giới, gặp hàng quyến thuộc. Nếu người đó lại trong vòng mỗi ngày niệm danh Bồ Tát đủ một nghìn lần, suốt một nghìn ngày, người ấy sẽ được Địa Tạng Bồ Tát sai các Quỷ, Thần, Thổ Địa sở tại suốt đời hộ vệ hiện đời cũng được ăn mặc dư dật, hết những bệnh khổ cho đến những sự tai vạ bất kỳ, không lọt qua cửa, huống là chính mình phải chịu họa ư! Sau cùng lại được Địa Tạng Bồ Tát làm phép xoa đầu mà thụ ký cho.”

7 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!

Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào muốn phát từ tâm rộng lớn cứu độ hết thảy chúng sinh, muốn tu hành Đạo Vô Thượng Bồ đề lại muốn thoát khỏi trong vòng tam giới; những người ấy thấy hình tượng Địa Tạng và nghe danh Ngài, dốc lòng quy y hoặc đem hương hoa, y phục, châu báu, đồ ăn, thức uống, mà dâng cúng dàng, chiêm ngưỡng, đỉnh lễ thì sự cầu nguyện của người thiện nam và thiện nữ đó, mau được thành tựu không bao giờ còn bị mắc chướng ngại.

Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm! Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu muôn ức những điều nguyện gì, hay nghìn vạn ức những sự việc gì, ở đời hiện tại hay đời sau này, thì nên quy y, chiêm lễ, cúng dàng, tán thán hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, thế thì những điều sở nguyện sở cầu đều được thành tựu, nếu lại nguyện xin Địa Tạng Bồ Tát đại từ đại bi ủng hộ mãi cho, thời trong giấc mộng người đó liền được Địa Tạng Bồ Tát xoa đầu thụ ký.”

8 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!

Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào, trân trọng đối với Kinh điển Đại Thừa, phát tâm sâu xa không thể nghĩ bàn, cầu mong đọc tụng, dù gặp thầy giỏi truyền dạy cho thuộc nhưng rồi vẫn quên, cả tháng cả năm không thể làm sao mà đọc tụng được những người thiện nam và thiện nữ ấy vì nghiệp chướng cũ chưa được tiêu trừ, cho nên đối với Kinh điển Đại Thừa, kẻ ấy không có tính năng đọc tụng. Những người như thế nếu được nghe danh hoặc thấy hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, mà dốc hết lòng cung kính giãi bày, lại đem hương hoa, các thức ăn, mặc và các đồ thờ cúng dàng Bồ Tát; lấy chén nước trong đặt trước tượng Ngài suốt một ngày đêm, sau đó chắp tay thỉnh xin chén nước, ngoảnh về phương nam mà uống cho cạn. Khi uống vào miệng tâm phải trịnh trọng, uống nước xong rồi, kiêng năm thứ cay, rượu, thịt, tà dâm, cho đến vọng ngữ; mọi sự giết hại trong vòng bảy ngày, hoặc hai mốt ngày: thì người thiện nam hay thiện nữ ấy, khi ngủ sẽ mộng thấy Ngài Địa Tạng hiện vô biên thân, đến nơi dội nước lên đỉnh đầu cho! Sau khi tỉnh dậy người ấy liền được thông minh sáng suốt, một khi nghe qua Kinh điển Đại Thừa, thì liền nhớ mãi không bao giờ quên một câu Kinh, kệ.”

9 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!

Về đời sau này, nếu có người nào ăn mặc thiếu thốn, cầu không toại nguyện, thân nhiều bệnh tật hoặc nhiều hung suy, nhà cửa bất an quyến thuộc chia lìa, hoặc nhiều tai ương đến quấy nhiễu mình, trong mộng thường thấy gặp sự kinh sợ. Những người như thế nếu được nghe danh hoặc thấy hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, dốc lòng cung kính niệm danh hiệu Ngài đủ một vạn biến, thì những sự việc không toại ý trên, dần dần tiêu sạch và được an lành, ăn mặc dư dật, cho đến giấc mộng đều được an vui.”

10 - Lại thế này nữa, Bồ Tát Quán Âm!

Nếu đời sau này, có người thiện nam hay thiện nữ nào trong đường sinh hoạt, vì việc công, tư, vì việc sinh tử hoặc vì việc gấp phải vào rừng núi, vượt biển qua sông, hoặc nước lụt lớn, hoặc qua đường hiểm, thì những người ấy trước khi ra đi, nên niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến, được như thế thì qua những nơi ấy đều có các vị Quỷ, Thần hộ vệ, đi, đứng, nằm, ngồi đều được yên vui. Cho dù có gặp hùm, sói, sư tử tất cả độc hại đều không xâm phạm.

Đức Phật lại bảo Ngài Quán Thế Âm!

Địa Tạng Bồ Tát có nhân duyên lớn với cõi Diêm Phù. Nếu như Ta nói những sự lợi ích của Ngài Địa Tạng cho chúng nghe thấy, thì trăm nghìn kiếp cũng không nói xiết. Vậy Quán Thế Âm! Ông nên lấy sức thần thông quảng đại lưu truyền Kinh này, khiến cho chúng sinh ở cõi Sa Bà trăm nghìn vạn kiếp mãi được yên vui.”

Bấy giờ Đức Phật mới nói kệ rằng:

Ta xem Địa Tạng sức uy thần,

Hằng hà sa kiếp khôn kể xiết,

Trong cõi Trời, người nếu chúng sinh,

Thấy nghe chiêm lễ một thời niệm,

Tất được lợi ích nhiều vô biên,

Ví dù nam nữ hoặc Long, Thần,

Khi hết phúc rồi đọa đường ác,

Nếu biết dốc lòng quy Đại Sĩ,

Tội chướng tiêu trừ phúc thọ tăng.

Những kẻ mồ côi cả cha mẹ,

Không được ấp ủ trong tình thương,

Vong hồn phụ mẫu bị sa đọa,

Lạc ở nơi đâu cũng không tường,

Lại những ai từ ngày sinh trưởng,

Họ hàng không được gặp bao giờ,

Và anh chị em dòng thân thuộc,

Đều chết từ lúc mình ấu thơ.

Kẻ ấy nay tô tượng Đại Sĩ,

Cảm luyến chiêm lễ không muốn rời,

Hai mươi mốt ngày niệm danh hiệu,

Bồ Tát liền hiện vô biên thân,

Chỉ rõ nơi sinh hàng quyến thuộc,

Dù đọa ác thú cũng ra mau,

Nếu tâm chẳng thoái lòng kính ngưỡng,

Liền được Bồ Tát đến xoa đầu.

Những ai muốn tu Bồ đề Đạo,

Cho đến mong lìa khổ ba đường,

Người ấy phát tâm từ bi lớn,

Trước nên chiêm bái Địa Tạng hình,

Hết thảy đều nguyện được mau thành,

Nghiệp chướng vĩnh viễn không ngăn ngại.

Có ai phát tâm niệm tụng Kinh,

Muốn độ quần mê sang bến Giác,

Dẫu lập nguyện lớn không nghĩ bàn,

Thế mà vừa đọc đã quên mất.

Người ấy bởi nghiệp chướng làm mê,

Cho nên Kinh Đại Thừa khó nhớ,

Nay phải nên đem các hương hoa,

Cả thứ ăn mặc đồ ngọa cụ,

Cúng dàng Địa Tạng thật thành tâm,

Đặt chén nước trong trước Đại Sĩ,

Sau một ngày đêm khẩn nguyện cầu,

Rồi uống chén nước cầu xin đó,

Và phải phát tâm rất sâu dày,

Nghiêm minh giữ gìn tròn ngũ giới,

Kiêng kỵ không ăn năm thứ cay,

Trong hai mốt ngày không hại vật,

Dốc lòng tưởng niệm Đại Sĩ danh,

Chiêm bao thấy rõ Bồ Tát hiện,

Tỉnh dậy liền được lợi đủ căn.

Từ đấy Kinh Chú tai nghe lọt,

Nghìn vạn kiếp sinh nhớ chẳng sai,

Nhờ uy thần lớn của Đại Sĩ,

Giúp cho người ấy trí tuệ thông.

Chúng sinh nghèo khổ thêm bệnh tật,

Cửa nhà hoạn nạn quyến thuộc ly,

Ngủ mê trong mộng không yên giấc,

Cầu mong thảy đều trái ý mình,

Dốc lòng chiêm lễ cầu Địa Tạng,

Hết thảy việc ác tự tiêu tan,

Cho đến chiêm bao đều yên ổn,

Quỷ, Thần ủng hộ cơm áo dư.

Muốn qua sông biển vượt rừng núi,

Cầm thú độc hại, cướp đón đường,

Hung Thần, Ác Quỷ mưa gió dữ,

Hết thảy tai ương mọi khổ đau,

Nếu biết chiêm lễ và cúng dàng,

Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ tượng,

Những ác hại kia thảy tiêu trừ.

Quán Âm lắng nghe Ta nói rõ,

Địa Tạng công đức lớn vô biên,

Trăm nghìn vạn kiếp nói không hết,

Sức nguyện của Ngài mở rộng ra,

Ai được nghe danh hiệu Bồ Tát,

Cho đến thấy tượng chiêm lễ Ngài,

Hương hoa ăn uống dâng y phục,

Người ấy nghìn đời hưởng thú vui,

Nếu lại biết đem công đức ấy,

Hồi hướng Pháp giới khắp chúng sinh,

Tất sẽ thành Phật thoát sinh tử.

Cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm,

Kinh này cần biết tuyên bày rõ,

Khắp cõi Hằng sa được lưu truyền. (1 vái) ooo


 

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN
PHẨM THỨ MƯỜI BA: DẶN DÒ CỨU ĐỘ NHÂN THIÊN

1 - Bấy giờ Đức Phật giơ tay sắc vàng làm phép xoa đầu Ngài Địa Tạng Bồ Tát mà bảo rằng:

“Này ông Địa Tạng! Bồ Tát Địa Tạng!

Thần lực của ông không thể nghĩ bàn. Từ bi của ông không thể nghĩ bàn. Trí tuệ của ông không thể nghĩ bàn. Biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dù cho chư Phật khắp cả mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của ông, trăm nghìn muôn kiếp cũng không hết được.

Này ông Địa Tạng! Ông nên nhớ kỹ ngày nay Ta ở cung Trời Đao Lợi, cùng trăm vạn ức hết thảy chư Phật, các vị Bồ Tát, Trời, Rồng, tám bộ không thể kể xiết trong đại hội này, lại đem chúng sinh trong cõi Trời, người còn trong nhà lửa chưa thoát tam giới, phó chúc cho ông.

Ông chớ để cho những chúng sinh ấy bị đọa đường ác, dù một ngày, đêm; huống chi lại để cho chúng bị đọa vào ngục Vô Gián và ngục A Tỳ hàng muôn ức kiếp khó thoát khỏi ư?

Này ông Địa Tạng! Chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề tâm tính không định, quen làm ác nhiều, chợt có đôi lúc thoáng phát thiện tâm, nhưng rồi phút chốc lại thoái lui ngay, nếu gặp duyên ác liền tăng gấp bội. Bởi thế cho nên Ta phân thân ra trăm nghìn muôn ức, thuận theo căn tính của chúng mà độ cho được giải thoát.

Này ông Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng Trời, người, phó chúc cho ông. Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào trong cõi Trời, người mà gây lấy được một chút thiện căn ở trong Phật Pháp, dù bằng sợi tóc, bụi cát, giọt nước, thì ông nên lấy đạo lực ủng hộ cho những người ấy tu tập dần dần chứng Đạo Vô Thượng, chớ để cho họ phải bị thoái lui.

Lại nữa Địa Tạng! Về đời sau này, nếu có những người cõi nhân, cõi Thiên theo nghiệp báo ứng mà bị sa đọa vào nơi ác đạo. Đến khi bị đọa vừa tới cửa ngục, những chúng sinh ấy nếu niệm được một danh hiệu Đức Phật, hay hiệu Bồ Tát, hoặc một bài kệ hay một câu văn Kinh điển Đại Thừa, thì ông nên dùng thần lực của ông, tìm mọi phương tiện cứu vớt người đó và nên hiện thân ra trước người đó, mở toang địa ngục khiến cho họ được sinh lên cõi Trời hưởng sự an lạc.”

Bấy giờ Đức Phật nói bài kệ rằng:

Nay Ta ân cần dặn bảo ông,

Dùng sức thần thông phương tiện độ,

Đời nay đời sau chúng nhân, Thiên,

Khiến cho khỏi đọa vào đường ác.

2 - Lúc bấy giờ Ngài Địa Tạng Bồ Tát, quỳ gối chắp tay bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Xin đừng bận tâm! Về đời sau này nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, đối với Phật Pháp cung kính giây phút, con cũng xin dùng trăm nghìn phương tiện độ cho người ấy mau được giải thoát khỏi vòng sinh tử. Huống chi người ấy nghe thấy việc thiện, rồi nhớ tới tu hành, tất nhiên là được chứng Đạo Vô Thượng, không bao giờ còn thoái chuyển được nữa.”

3 - Lúc Ngài Địa Tạng nói đến đây xong trong Pháp hội có một vị Bồ Tát là Hư Không Tạng bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Từ khi con đến cung Trời Đao Lợi, nghe Đức Như Lai khen sức uy thần không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, cho đến hết thảy các hàng, Trời, Rồng nghe Kinh điển này và nghe danh tự, chiêm lễ hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, thì sẽ được hưởng những phúc lợi gì? Xin Đức Thế Tôn vì khắp chúng sinh đời này, đời sau, nói lược việc ấy cho con được nghe.”

4 - Đức Phật bảo Ngài Hư Không Tạng rằng: “Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà nói rõ cho. Về đời sau này, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, được thấy hình tượng Địa Tạng Bồ Tát và nghe Kinh này cho đến đọc tụng, rồi đem hương hoa, các thứ ăn, uống, y phục, châu báu, bố thí, cúng dàng, chiêm lễ, tán thán, thì kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi ích như sau:

Một là được hàng Thiên Long hộ niệm.

Hai là quả thiện ngày một thêm lên.

Ba là kết tập nhân lành Vô Thượng.

Bốn là tâm đạo chẳng thoái Bồ đề.

Năm là y phục ăn, uống đầy đủ.

Sáu là không còn mắc những bệnh tật.

Bảy là xa lìa tai nạn nước lửa.

Tám là không bị tệ nạn trộm cắp.

Chín là ai thấy cũng đều kính phục.

Mười là được các Quỷ Thần giúp đỡ.

Mười một là thân nữ chuyển thân nam.

Mười hai là làm con gái Vua, quan.

Mười ba là được thân tướng tốt đẹp.

Mười bốn là thường được sinh cõi Trời.

Mười lăm là hoặc làm bậc Vua Chúa.

Mười sáu là đủ thông rõ kiếp trước.

Mười bảy là cầu những gì cũng được.

Mười tám là quyến thuộc được yên vui.

Mười chín là họa bất ngờ dứt sạch.

Hai mươi là thoát hẳn những nghiệp chướng.

Hai mốt là đến đâu không trở ngại.

Hai hai là đêm mộng được an vui.

Hai ba là tiên vong được lìa khổ.

Hai bốn là nhờ phúc sinh cõi lành.

Hai lăm là được Thánh Hiền khen ngợi.

Hai sáu là thông minh được lợi căn.

Hai bảy là thêm giàu lòng từ mẫn.

Hai tám là rốt ráo được thành Phật.

5 - Lại nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Nếu như các hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần đời này, đời sau được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát đỉnh lễ hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, hoặc được nghe thấy những sự tu hành bản nguyện của Ngài Địa Tạng Bồ Tát, mà lòng ngưỡng mộ tán thán chiêm lễ, thì được bảy điều lợi ích như sau:

Một là mau chóng được bậc Thánh.

Hai là nghiệp ác tiêu trừ hết.

Ba là chư Phật đều ủng hộ.

Bốn là không thoái Đạo Bồ đề.

Năm là bản lực được tăng trưởng.

Sáu là biết rõ việc đời trước.

Bảy là rốt ráo được thành Phật.

6 - Bấy giờ Pháp hội tất cả các vị nhiều không kể xiết, hết thảy chư Phật chư Đại Bồ Tát, Trời, Rồng, tám bộ ở khắp mười phương đến nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên dương khen ngợi sức uy thần lớn không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng và đều khen rằng việc chưa từng có.

Lúc đó ở trên cung Trời Đao Lợi tỏa xuống như mưa những hoa thơm ngát, thiên y, châu báu cúng dàng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài Địa Tạng Bồ Tát xong rồi, tất cả đại chúng ở trong Pháp hội cung kính chắp tay chiêm lễ mà lui.

(KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BẢN NGUYỆN HẾT QUYỂN HẠ)

Kinh Địa Tạng bản thệ

Cân nhắc các nghiệp nhân

Nào ngọng, câm, tàn tật

Bởi kiếp trước gây nên

Nay dốc lòng đọc tụng

Các Kinh điển Đại Thừa

Được vô biên phúc lợi

Hoa Sen báu ắt sinh.

Nam mô Thường trụ Thập phương Tăng. (3 lần) 1 vái OOO


 

KỆ NIỆM BỒ TÁT DANH

Đức Địa Tạng tâm từ như đất,

Hết thảy ba đời chư Phật khen,

Rộng sâu đại nguyện sức uy thần,

Độ sinh chưa hết chưa thành Phật,

Gậy Tích rung lên tan địa ngục,

Ngọc Châu soi suốt thấu đại thiên,

Bồ Tát giáo chủ cõi U Minh,

Đưa khắp hữu tình sang bến Giác.

Nam mô U Minh Giáo chủ Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần) 1 vái OOO

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (1 tràng hay 3 tràng) 1 vái ooo

(Nêu có nhu cầu thì đọc sớ biểu hay văn cầu siêu, rồi tụng Bát Nhã cho đến Tam tự quy là xong khóa lễ.)


 

TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát nhã Ba la mật đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền độ thoát hết thảy khổ ách.

Này ông Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, Không chẳng khác Sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức, cũng đều như thế.

Này ông Xá Lợi Tử! Tướng không của mọi pháp không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt cho nên trong chân không, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý: không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có cái hết vô minh, cho cả cái già, chết, cũng không có cái hết già, chết, không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo không có trí tuệ cũng không có chứng đắc, vì không chỗ chứng đắc.

Bồ Tát y theo Bát nhã Ba la mật đa nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu kính Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã Ba la mật đa mà chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Cho nên biết Bát nhã Ba la mật đa là Đại Thần chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng chú, là Vô Đẳng Đẳng chú trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.

Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã Ba la mật đa. Liền nói bài chú rằng

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đề, Bồ đề tát bà ha, Ma Ha Bát nhã Ba la mật đa” (3 lần)

THẦN CHÚ VÃNG SINH TỊNH ĐỘ

Nẵng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa già tha, a di rị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đa, già di nhị, già già na, chỉ đá ca lệ, sa bà ha. (3 lần)


 

KỆ NIỆM PHẬT A DI ĐÀ

Phật Di Đà mình vàng lấp lánh,

Tướng tốt thay trong sáng khôn bì,

Mi trắng toả Tu Di năm núi,

Mắt như bốn biển lớn trong xanh,

Hào quang hoá Phật hình vô ức,

Hóa Bồ tát cũng thật vô biên,

Bốn tám nguyện khắp miền độ chúng,

Chín phẩm hàm linh chứng Bồ đề.

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật. (3 lần)

Nam mô A Di Đà Phật (108 biến).

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát. (10 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát. (10 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần).


 

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức lớn vô cùng,

Bao nhiêu phúc đức xin hồi hướng,

Nguyện khắp chúng sinh đang chìm đắm,

Sớm về nước Phật Vô Lượng Quang.

Đao Lợi Phật thuyết Pháp huyền diệu,

Công hạnh Địa Tạng rất rộng sâu,

Đời sau mãi lưu truyền Thánh Giáo,

Lợi khắp Trời, người thoát khổ đau.

Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát. (3 lần) 1 vái ooo

TAM TỰ QUY

1 - Con quy Phật rồi, Nguyện cho chúng sinh, Thấu hiểu Đạo lớn, phát tâm vô thượng. (1 lễ)

2 - Con quy Pháp rồi, Nguyện cho chúng sinh, Thông thuộc Kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)

3 - Con quy Tăng rồi, Nguyện cho chúng sinh, Hòa hợp đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)

LẠY CHƯ THÁNH HIỀN

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về khắp cả

Đệ tử và chúng sinh

Đều trọn thành Phật Đạo. (3 vái)

HẾT

VĂN CẦU SIÊU

C.S. ĐỌC:

Kính lạy Tam Bảo!

Đệ tử chúng đẳng, thành kính nguyện Phật, Pháp, Tăng trong mười phương.

Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đức Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát, Hộ Pháp Thiện Thần từ bi gia hộ.

Chúng đệ tử tụng đọc “Địa Tạng Bản Nguyện Công Đức Kinh” cập lễ Phật niệm Phật chuyên vì gia đình (Tín chủ) là: … ở … xã, huyện, tỉnh, nước Việt Nam.

Nay nhân tuần …, thành tâm biện sửa hương hoa lễ phẩm cúng dàng Tam Bảo. Nguyện cầu siêu độ cho hương hồn (Bố hay Mẹ) của tín chủ là chân linh: ….

Mệnh vong ngày …

Phần mộ nay táng tại nghĩa trang …

Và khắp nội ngoại hết thảy các vong linh.

Đ.C. HÒA:

Nguyện chư hương linh đẳng:

Nhất tâm hằng tỏ ngộ, Lục dục sớm tan không.

Cõi nhân gian sinh tử xa lìa, Nơi An Lạc hóa sinh tự tại.

Ao Thất Bảo thảnh thơi tắm mát, Đài cửu Liên nhẹ gót tiêu dao.

Quán Thế Âm, Thế Chí kết đồng hàng, Bồ Tát Thánh Tăng là bầu bạn.

Thần thức hằng vui nơi cõi Tịnh, Nghiệp duyên trần không vướng mảy may.

Trên đài Sen chín phẩm nở hoa, Chư Phật phóng hào quang thụ ký.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại từ Đại bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.


 

TUYÊN BIỂU

Thượng lai tụng kinh dĩ tất, kim hữu biểu văn hợp thành tuyên đọc. O

Tuân phụng Như Lai, thần tuân phụng Thích Ca Như Lai di giáo. Đệ tử thần thành hoàng, thành khủng, khể thủ, khấu thủ, đại vì chúng nhân bách bái, trần từ tuyên bạch thượng ngôn. OOO

KÍNH NGHE:

Tính không vắng lặng, nghiệp do thiện ác kết thành.

Đạo có luân hồi, tội bởi vô minh che lấp.

Nhờ Bồ Tát lưu trữ nhân lành, khiến chúng sinh thoát qua cửa ác.

Nay (Hiếu chủ hay Tín chủ) chúng con là: … cùng họ hàng nội ngoại quyến thuộc, ở … xã, huyện, tỉnh, nước Việt Nam.

Nhân: (Tuần hay ngày …) cầu siêu độ vong báo ân dưỡng dục.

Chúng con thành tâm cúng dàng Tam Bảo, Hộ Pháp Tôn Thần từ bi cứu khổ độ trì cho hương hồn: …

Mất ngày …

Phần mộ táng tại ….

Cùng khắp nội ngoại gia tiên tiền tổ hết thảy đẳng chư hương hồn.

Chúng con tự nghĩ: Chân linh chư vị

Bản tính chưa thông, chân tâm chẳng ngộ. Phóng túng thân, khẩu, ý ba nghiệp mê lầm. Buông lung tham, sân, si sáu căn rông rỡ. Sinh trong trần thế thường gây nên lắm mối oan gia. Thác xuống u đồ dễ đọa vào các nơi ác đạo.

Ba đường khổ mặc máy luân hồi, Mười cửa ngục theo căn định nghiệp. Vòng quanh kiếp kiếp duyên nợ báo đền, Nối tiếp đời đời oán thân gặp gỡ. Khiến cho nhau xa lánh cửa từ, Đua cả nhóm vào trong nhà tối.

Người có đạo quay đầu tới bến được an vui, Kẻ không tu nhắm mắt xuôi tay còn oán hận.

Một dạ xót xa, tấc lòng thành khẩn, Chẳng nhờ bản hạnh, khó báo từ ân.

Bởi thế hôm nay nhờ có thiện duyên, tín chủ chúng con nhất tâm kính thỉnh: (Chư Tăng hay thiện nam tín nữ trong bản hội) tới (Chùa hay nhà) thiết lập đàn tràng thỉnh Phật, tuyên Kinh nương nhờ giáo Pháp. Cúi đầu phát nguyện kính lễ Đức Như Lai, xin báo bốn ân, cầu lên bờ Giác. Nay thời Khai Kinh: “Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Công Đức” đã xong.

Kính dâng Văn Biểu chí thiết, chí thành cúi mong chứng giám:

Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kim liên tọa hạ. O

Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Kim liên tọa hạ. O

Nam mô U Minh Giáo Chủ Bản Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Hồng liên tọa hạ. O

Thập Bát Long Thần Già Lam Chân Tể. Vị tiền. OOO

NGƯỠNG TRÔNG:

Lòng từ rộng lớn, thệ nguyện vô biên.

Bỏ thân huyễn hoặc để chóng ngộ vọng duyên.

Theo Đức Giác Hoa mà sớm mong thụ ký.

Chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề.

Địa ngục chưa không chẳng thành quả Phật.

Ngài Bồ Tát nâng Minh Châu soi khắp đại Thiên.

Đấng Đại Sư giơ Tích Trượng mở tung địa ngục.

LẠI NGUYỆN:

Chư linh chân tâm sáng tỏ, phúc tuệ tròn đầy.

Sinh tử vốn không chóng thoát đường mê đen tối.

Sắc không chẳng khác sớm lên bờ Giác thênh thang.

Giãi tấm lòng thành lạy Đức từ bi tế độ.

Kính dâng Văn Biểu Bồ Tát chứng minh.

Biểu văn tuyên tại: …

Ngày: …

Chúng con thành tâm dâng biểu. (1 vái) OOO

Thượng lai Biểu Văn tuyên đọc dĩ chu, kim đối Tam Bảo tiền, thành tâm cẩn bạch.

Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần) OOO


Đăng nhận xét

0 Nhận xét