Những manh mối về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong Phật giáo thời kỳ nguyên thủy
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng phổ quát của nhân loại. Nó bắt nguồn từ những tình cảm sơ khai nhất, từ những mối quan hệ phổ biến nhất.
Khảo sát tạng kinh A hàm, Nikaya, có một số mẩu chuyện cho ta biết về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Ấn Độ thời kỳ đức Phật còn tại thế
Ở đây xin đề cập đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo nghĩa hẹp, tức là thờ cúng đến những người có quan hệ huyết thống với mình. Chúng tôi tạm thời chưa đề cập đến thờ cúng tổ tiên theo nghĩa thờ cúng vật Tổ, hay các thế lực siêu nhiên được coi là nguồn gốc của con người (ví dụ như thờ cúng Phạm Thiên, với quan niệm cho rằng Phạm Thiên là nguồn gốc của con người)
Đây chỉ là một đôi nét về tín ngưỡng tổ tiên qua hệ văn A hàm. Phật giáo không chỉ có hệ A hàm, cũng như Ấn độ không chỉ có riêng Phật giáo ghi chép lại kinh điển, nên những suy luận này chỉ mang tính gợi mở mà thôi
1. Thờ cúng tổ tiên là một trong các nghĩa vụ của người thuộc tầng lớp Phạm chí (Bà La môn)
Kinh Trung A hàm số 27. ‘Kinh Phạm Chí Đà Chiên’ “Này Đà-nhiên, ông không tinh tấn lại phạm vào các giới cấm. Dựa thế vào vua để dối gạt Phạm chí, Cư sĩ; dựa thế Phạm chí, Cư sĩ để dối gạt vua”. Phạm chí Đà-nhiên trả lời rằng: “Xá-lê Tử, nên biết, nay tôi còn sống tại gia, lấy gia nghiệp làm bổn phận. Tôi còn phải lo cho mình được an ổn, cung cấp cha mẹ, săn sóc vợ con, cung cấp nô tỳ, phải nộp thuế cho vua, thờ tự thiên thần, cúng tế tổ tiên, và còn phải bố thí cho các Sa-môn, Phạm chí để sau này còn được sanh lên các cõi trời, mong được trường thọ, được quả báo an lạc.
Trong Kinh Trung A hàm thì ghi ông này là một người ngoại đạo Phạm chí. Tuy nhiên trong Kinh Trung Bộ số 184 (kinh Đà chiên) thì lại ghi ông là môn đệ của ông Xá lợi phất.
Như vậy nếu Theo Kinh Trung A hàm thì thờ cúng tổ tiên là một trong những nghĩa vụ của người Phạm Chí (chưa kết luận được là đó có phải là nghĩa vụ của Phật tử tại gia không)
Còn nếu Theo Kinh Trung Bộ thì Phật tử tại gia có nghĩa vụ phải thờ cúng tổ tiên.
Chú ý một điểm là, trong lời kể của mình thì ông Đà Chiên đã tách bạch giữa cúng tế tổ tiên và bố thí cho Sa môn. Có thể cách nói này được hiểu là hai nghi thức trên khác nhau về mục đích hoặc khác nhau về hình thức thực hiện. (Tức là có thể đặt ra giả thuyết ông này là Phật tử sơ cơ vẫn còn đang ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng ngoại giáo, nên chú trọng việc thờ cúng tổ tiên bằng cách cúng tế trực tiếp chứ chưa hoàn toàn chuyển sang việc tổ chức trai tăng để hồi hướng)
2. Cúng tế đến quyến thuộc là nhu cầu tâm linh của Phật tử thuộc giai cấp Sát đế lợi
Trong tiểu Bộ Kinh có một bài kinh là Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường. Nói về phép cúng dàng đúng phép của nhà Phật để vong linh quyến thuộc có thể nhận được đồ cúng tế. Tuy nhiên, căn cứ vào văn bản, Đức Phật vừa hóa độ vua Bình Sa, chưa hề thuyết giảng về phép này. Thế nhưng, vua đã cử hành lễ cúng. Và, do chưa được Phật dạy phép cúng đúng phép, nên vong linh quyến thuộc không nhận được đồ cúng tế. Như vậy hành động cúng tế của vua lúc đầu chính là hành động theo tập quán của xã hội đương thời
Tuy nhiên về hình thức: việc cúng cho Hương Linh ở đây được hiểu là cúng đến hàng sa môn rồi hồi hướng công đức, chứ không phải cúng đồ ăn trực tiếp cho Hương Linh. Nội bộ tài liệu không cho phép khẳng định gì thêm. Tuy nhiên ta có thể đặt ra giả thuyết, có lẽ đương thời vẫn phổ biến việc cúng tế trực tiếp cho Hương Linh quyến thuộc (nó thuộc về dạng tín ngưỡng "trực quan", hiển nhiên.). Và như vậy bài kinh này ra đời với mục đích là Phật giáo hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đối với hàng Phật tử tại gia. Điều này cũng giống như ở trong kinh Tam Minh, kinh lục phương lễ bái: Đức Phật cũng duy trì hình thức lễ bái đã sẵn có của người Ấn Độ chỉ thêm vào đó các nội dung quán tưởng mang tính chất ý nghĩa Phật giáo mà thôi
Nếu như khảo sát các thư tịch ngoài Phật giáo ta sẽ thấy các hình thức cúng tế khác: Quan niệm về thế giới bên kia và nghi thức cúng dàng cho người chết trong truyền thống Veda đã trải qua sự biến đổi theo thời gian. Ban đầu, trong thời kỳ Veda sớm, người ta tin rằng người mới chết lập tức nhập vào thế giới tổ tiên và được thần Yama trực tiếp ban cho một thân mới ($śarīra$), với nghi thức cúng dàng được gọi là pitṛ-yajña, thực hiện ngay sau khi hỏa thiêu. Tuy nhiên, qua sự tương tác văn hóa và các ghi chép sau này trong Phạm Thư và Áo Nghĩa Thư, quan niệm này đã thay đổi: người chết không đi vào thế giới tổ tiên ngay lập tức mà phải trải qua một giai đoạn trung gian gọi là preta (thân trung ấm). Quan trọng hơn, thay vì nhận thân mới từ Yama, người chết được con cháu hiến cúng dàng các bộ phận thân thể mới qua từng giai đoạn của chuỗi nghi thức phức tạp mang tên śrāddha, bao gồm việc cúng dàng cơm vắt (piṇḍa) tượng trưng cho các bộ phận này. Chuỗi nghi thức śrāddha này thường kéo dài một năm, bắt đầu bằng việc cúng dàng liên tiếp mười một ngày sau khi chết, tiếp theo là cúng dàng hàng tháng, và kết thúc bằng việc hiến cúng dàng hàng năm vào ngày giỗ—một truyền thống vẫn được duy trì tại Ấn Độ ngày nay.
Như vậy cúng tế và hồi hướng công đức đến quyến thuộc là nhu cầu của Phật tử thuộc giai cấp Sát đế lợi mang tính chất truyền thống, nhưng mặt khác cũng là pháp thực hành trong nghi thức Phật giáo.
(Trích đoạn trong kinh Tiểu bộ: "vào thời đức Thế Tôn Ca Diếp (Kassapa), đám người bất mãn trong tâm tái sanh vào loài ngạ quỷ.
Vào thời ấy, loài người thường cúng dường vì lợi ích của đám quyến thuộc quá cố của họ và nêu rõ: “Lễ vật này xin dành cho quyến thuộc của chúng tôi”. Do đó, các vong linh được an lạc. Thế rồi, chính các vong linh ấy cũng nhận biết điều này, nên sau khi đến gần đức Phật Ca Diếp, các vị ấy hỏi:
- Bạch Thế Tôn, giờ đây làm thế nào chúng con có thể đạt được an lạc như vầy?
Đức Thế Tôn đáp:
- Hiện nay chư vị chưa có thể đạt được an lạc ấy, nhưng thời gian về sau, sẽ có một đức Phật ở thế gian tên gọi là Go-ta-ma. Vào thời của đức Thế Tôn ấy, sẽ có một vị vua tên là Bình-sa (Bimbisāra), trong chín mươi hai kiếp nữa kể từ đây sẽ là quyến thuộc của chư vị. Vua ấy sẽ dâng lễ cúng dường đức Phật và sẽ hồi hướng công đức ấy đến chư vị, sau đó, chư vị sẽ được an lạc.
Thời bấy giờ, khi điều này được phát biểu, thì cũng như thể ta nói với các vong linh ấy: “Ngày mai chư vị sẽ được an lạc”.
Về sau, khi thời kỳ có đức Phật này đã qua, đức Thế Tôn Go-ta-ma giáng sanh vào cõi đời, ba vương tử cùng với một ngàn người từ thiên giới tái sanh vào quốc độ Ma-kiệt-đà (Magadha) trong các gia đình Bà-la-môn.
Theo thời gian, sau khi từ giã đời thế tục, ba vị trở thành các nhà khổ hạnh bện tóc, trú tại đỉnh núi Ga-da (Gaya), người trước kia cai quản tỉnh thành ấy trở thành vua Bình-sa; người thủ khố hoàng gia, con của vị gia chủ, trở thành đại phú trưởng nghiệp đoàn có tên Tỳ Xá Khư (Visākhā); vợ vị ấy trở thành con gái của một vị đại phú trưởng nghiệp đoàn và được đặt tên Dam-ma-din-na (Dhammadinnā), còn đám quần chúng được tái sanh làm các vị cận thần của vua.
Bấy giờ, đức Thế Tôn Go-ta-ma giáng sanh cõi trần, sau bảy tuần Giác Ngộ, Ngài đến Ba-la-nại (Bārāṇasī) chuyển Pháp luân. Ngài giáo hóa ba vị đạo sĩ bện tóc, sau khi Ngài đã khởi đầu giáo hóa năm vị khổ hạnh và thâu nhận cả ngàn đệ tử. Sau đó Ngài đi đến Vương-xá và an trú vua Bình-sa vào Sơ quả Dự Lưu cùng với hơn một vạn Bà-la-môn và cư sĩ ở tại xứ Ương-già (Anga) và Ma-kiệt-đà.
Tuy nhiên các ngạ quỷ ở quanh cung vua suy nghĩ: “Giờ đây nhà vua sẽ làm lễ cúng tế cho chúng ta được hưởng phước”. Trong lúc nhà vua làm tế lễ, nhà vua suy nghĩ: “Ta không biết bây giờ đức Thế Tôn đang trú ở đâu?”. Do vậy, nhà vua không hồi hướng công đức đến ai cả. Vì các ngạ quỷ không nhận được thí vật nào cả, chúng rất thất vọng thốt tiếng kêu thảm thiết mỗi đêm ở hoàng cung.
Rạng ngày, nhà vua hoảng sợ trình đức Thế Tôn về chuyện đã xảy ra và hỏi:
- Bạch Thế Tôn, Ngài đã nghe tiếng nào như vậy chưa? Con băn khoăn không biết việc gì xảy ra với con.
Đức Thế Tôn đáp:
- Thưa Đại vương, xin đừng sợ, không có gì bất thường xảy ra với Đại vương đâu, mà thịnh vượng sẽ đến với Đại vương thôi. Giờ đây, quả thật là quyến thuộc của Đại vương đã tái sanh vào loài ngạ quỷ. Trong suốt một kiếp, chúng đã lang thang khắp nơi và chỉ mong ước điều này: “Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường đức Phật và hồi hướng công đức ấy cho chúng ta”. Hôm qua, khi Đại vương dâng lễ, Đại vương đã không hồi hướng công đức. Do đó, chúng mất hết hy vọng và thốt tiếng kêu la.
Nhà vua hỏi:
- Bạch Thế Tôn, bây giờ làm sao chúng có thể nhận được thí vật?
Đức Phật đáp:
- Thưa Đại vương, quả thật chúng có thể nhận.
Nhà vua nói:
- Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của con vào ngày mai, con sẽ hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng.
Đức Thế Tôn nhận lời. Sau đó, nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: “Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó”, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.
Sau đó, đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: “Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta”. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.
Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.
Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó, liền xuất hiện cho chúng các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Đức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.
Rồi đức Thế Tôn, sau khi thọ thực xong, và được thỉnh cầu, Ngài kể chuyện ngạ quỷ ngoài bức tường thay lời tùy hỷ công đức.")
Tương tự: trong Chuyện mẹ kiếp trước của tôn giả Xá-lợi-phất, Mẹ năm kiếp trước của tôn giả Xá-lợi-phất là một phụ nữ Bà-la-môn giàu có nhưng tà kiến, ác độc. Sau khi chết, bà ấy đọa làm ngạ quỷ chịu đủ thống khổ đói lạnh. Một hôm, bà nhớ về kiếp trước nên đến tinh xá thăm tôn giả Xá-lợi-phất. Nhìn thấy nữ quỷ tiều tụy khổ sở, tôn giả hỏi thăm. Bà liền kể về kiếp trước với những ác nghiệp mà mình đã tạo và xin tôn giả bố thí cúng dường để hồi hướng công đức cho bà thoát khổ. Tôn giả Xá-lợi-phất đem chuyện tâu với vua Tần-bà-sa, nhà vua nguyện ý sắm sửa bốn tinh xá và nhiều vật dụng khác để cho tôn giả làm pháp sự cúng dường. Sau khi nhà vua sắm sửa lễ phẩm đầy đủ, tôn giả Xá-lợi-phất thỉnh Phật và chúng tăng đến để cúng dường rồi hồi hướng công đức cho nữ quỷ đó. Pháp sự hoàn thành, nữ quỷ liền thoát khổ ngạ quỷ và sinh lên thiên giới (Phương Lan, 1999; Gehman, 1942, 169).
3. Thờ cúng tổ tiên là một cách thức Tăng Phúc, tích phúc của Phật tử tại gia
Nếu như hai ví dụ trên, nói về các trường hợp Phật tử cụ thể, là người từ ngoại đạo và sau đó quy y Phật, thì ta còn thấy có một đoạn trong kinh Tăng chi bộ, nói về việc thờ cúng tổ tiên của người Phật tử.
Tăng Chi 2, trang 374~376 (Này Gia chủ, có năm lý do này để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp; tự làm mình an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; làm cho mẹ cha an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; làm cho vợ con, người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc. Ðây là lý do thứ nhất để gây dựng tài sản…. Vị ấy làm cho bạn bè thân hữu an lạc…; Các tai họa từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ kẻ thù hay từ các người thừa tự được chận đứng, và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy….; Hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho hương linh đã chết (peta), hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên….; đối với các Sa-môn, Bà-la-môn nào ly kiêu mạn, ly phóng dật, an trú nhẫn nhục, nhu hòa, nhiếp phục tự mình, an tịnh tự mình, làm lắng dịu tự mình, đối với những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy vị ấy tổ chức sự cúng dường tối thượng, đưa đến cảnh giới chư Thiên, được quả dị thục, đưa đến cõi trời
Như vậy, việc thờ cúng, Phụng hiến tổ tiên không chỉ là phương tiện trong giáo hóa và thu hút tín đồ, không chỉ là việc tiếp tục duy trì truyền thống cúng lễ đương thời, mà thờ cúng tổ tiên được xác nhận như một nghĩa vụ của người Phật tử tại gia.
Một điều thú vị cần chú ý trong đoạn kinh này là: đề mục hiến cúng cho Hương Linh và đề mục bố thí cho Sa môn tiếp tục được để riêng thành hai đề mục khác nhau trong 5 Pháp. Như vậy, cách trình bày này đã ngầm thừa nhận việc cúng dàng trực tiếp cho vong linh cũng có tác dụng hoặc có công đức???
4. Tạm kết luận
Như vậy, qua việc phân tích các bài kinh, ta có thể đi đến một số kết luận sơ bộ:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng cổ truyền của Ấn Độ. Thờ cúng tổ tiên là nghĩa vụ và nhu cầu tâm linh của các giai cấp trên như sát đế lợi và bà-la-môn (còn đối với các giai cấp dưới thì chưa thể khẳng định gì thêm)
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tiếp tục được duy trì trong hàng đệ tử Phật giáo, được Phật giáo hóa thêm một bước như đa số các cách thực hành tín ngưỡng đương thời. Đây vừa là sách lược khôn khéo trong việc thu phục tín đồ vừa có căn cứ nội tại từ ngay trong lý luận của Phật giáo.
Về hình thức cúng tế, trong A hàm thời giáo, Phật giáo vận động chuyển từ hình thức cúng tế trực tiếp sang hình thức tổ chức trai tăng, cúng dàng Tứ sự cho tăng già Sa môn, Bà La môn, ... để hồi hướng công đức
Như vậy, không thể nói kiểu: "Đạo Phật vốn không thờ tổ tiên, nhưng khi hòa nhập với châu Á thì cũng không cấm ai thờ". Sự thật là Phật giáo đồ, nhất là đối với hàng bạch y, tiếp tục thờ cúng tổ tiên theo truyền thống kết hợp với phương pháp mới do Phật giáo chủ trương. Khi qua Đông độ, với tinh thần này, Phật giáo đồ tiếp tục cải biến, Phật giáo hóa nghi thức thờ cúng tổ tiên sở tại, cũng như dân gian hóa phép cúng bái hương linh của Phật giáo, sản sinh ra tín ngưỡng thờ cúng tổ đặc sắc của mình.
0 Nhận xét